All Documents

NGHỀ NUÔI VỊT CHẠY ĐỒNG / NÔNG NGHIỆP TINH HOA NGHỀ NUÔI VỊT CHẠY ĐỒNG / NÔNG NGHIỆP TINH HOA Giám đốc Sở TN&MT Tp Đà Nẵng Tô Văn Hùng cho biết, để lồng ghép, gắn kết một cách khoa học nhất các mục tiêu về môi trường với các mục tiêu kinh tế xã…

NGHỀ NUÔI VỊT CHẠY ĐỒNG / NÔNG NGHIỆP TINH HOA
NGHỀ NUÔI VỊT CHẠY ĐỒNG / NÔNG NGHIỆP TINH HOA

Giám đốc Sở TN&MT Tp Đà Nẵng Tô Văn Hùng cho biết, để lồng ghép, gắn kết một cách khoa học nhất các mục tiêu về môi trường với các mục tiêu kinh tế xã hội; dự báo, cung cấp một cách đầy đủ và toàn diện các thông tin về xu hướng biến đổi môi trường, tác động môi trường có thể xảy ra khi triển khai quy hoạch, Viện Khoa học Kỹ thuật và Môi trường đã hoàn chỉnh dự thảo Báo cáo đánh giá môi trường chiến lược của Quy hoạch thành phố Đà Nẵng thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 trên cơ sở nội dung dự thảo Quy hoạch thành phố Đà Nẵng thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.

Tại hội thảo, các chuyên gia, nhà khoa học tập trung trao đổi các vấn đề môi trường như mất cân bằng hệ thống tài nguyên nước do nhu cầu tiêu thụ nước gia tăng, quá trình đô thị hoá, phát triển thương mại du lịch làm gia tăng chất thải rắn phát sinh; ô nhiễm không khí, tiếng ồn tại các nút giao thông chính…

Nhiều ý kiến đề nghị cần bổ sung nghiên cứu an toàn sinh học, dịch bệnh, giải pháp bảo vệ tài nguyên nước cũng như đề xuất xây dựng khu bảo tồn biển tại Đà Nẵng. Trong quá trình phát triển thành phố cần phải lồng ghép vấn đề bảo vệ môi trường đối với các phương án phát triển du lịch, thương mại và dịch vụ, Logistics và giao thông vận tải…

Giới thiệu với đoàn công tác của USAID, lãnh đạo tỉnh Sóc Trăng giới thiệu sơ nét về tiềm năng, lợi thế của tỉnh, nổi bật là lĩnh vực thủy sản, nông nghiệp, năng lượng tái tạo… Bên cạnh đó, tỉnh có bờ biển dài 72km, với 2 cửa sông Định An và Mỹ Thanh, đây là lợi thế rất lớn trong phát triển kinh tế biển nhưng cũng gây sạt lở bờ sông, xói mòn bờ biển, tác động đến sinh kế của người dân do biến đổi khí hậu.

Những năm gần đây, Sóc Trăng đã chủ động và có nhiều biện pháp nhằm hạn chế tác động của biến đổi khí hậu, hạn chế ảnh hưởng ở mức thấp nhất đến đời sống người dân với sự hỗ trợ của USAID. Tuy nhiên, do nguồn lực hạn chế, Sóc Trăng rất cần sự hỗ trợ, hợp tác từ các tổ chức, cơ quan trong và ngoài nước, giúp địa phương giảm nhẹ tác động do biến đổi khí hậu, hướng đến ổn định và nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân.

Tại buổi làm việc, UBND tỉnh và USAID cùng trao đổi nhiều vấn đề về xử lý rác thải, bảo vệ môi trường, giải pháp chống biến đổi khí hậu, giảm phát thải nhà kính; chuyển đổi mô hình sản xuất nâng cao giá trị sản phẩm từ tôm – lúa… và thống nhất tìm hiểu hợp tác về lĩnh vực năng lượng tái tạo, biến đổi khí hậu và môi trường trong thời gian tới.

Bà Ann Marie Yastishock đánh giá, qua tìm hiểu, bà nhận thấy Sóc Trăng có rất nhiều tiềm năng để hợp tác cùng USAID nhất là năng lượng tái tạo, bảo tồn môi trường biển và giải quyết các vấn đề liên quan đến biến đổi khí hậu. Theo bà Ann Marie Yastishock, USAID rất quan tâm hỗ trợ Việt Nam nâng cao khả năng chống chịu biến đổi khí hậu, nhất là khu vực đồng bằng sông Cửu Long trong đó có tỉnh Sóc Trăng. Hiện USAID đang triển khai dự án chống biến đổi khí hậu và rất mong nhận được sự hỗ trợ, hợp tác của tỉnh trong lĩnh vực này.

Đứng trước vấn đề này, TS Lưu Văn Năng, Văn phòng Tổng cục Quản lý đất đai đã thực hiện Đề tài “Nghiên cứu, đề xuất bộ tiêu chí đảm bảo sinh kế bền vững khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp từ đó đổi mới các hình thức bồi thường, hỗ trợ cho người dân” mang tính cấp thiết để giải quyết vấn đề thực tiễn làm thế nào để đảm bảo sinh kế bền vững cho người có đất nông nghiệp thu hồi của công tác bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp và cũng đáp ứng được yêu cầu hội nhập phát triển của đất nước.

Nghiên cứu từ thực tiễn cho thấy, việc người dân không còn đất nông nghiệp sản xuất đã tác động trực tiếp đến sinh kế lâu dài của họ, sự tác động này cũng diễn ra theo hai chiều hướng khác nhau. Một là theo chiều hướng tích cực đối với các trường hợp phục hồi và phát triển được sinh kế tốt hơn trước khi có đất nông nghiệp sản xuất, làm cho chất lượng cuộc sống (vật chất, tinh thần) của họ ngày một đi lên. Hai là theo chiều hướng tiêu cực đối với các trường hợp cuộc sống ngày một sụt giảm về đời sống kinh tế, tinh thần, sinh kế bền vững lâu dài không được bảo đảm.

Khi nhà nước thu hồi đất cả năm nguồn vốn đảm bảo sinh kế cho người dân đều đã có sự thay đổi đáng kể. Trong đó, nguồn vốn tự nhiên (đất đai) bị giảm đã chuyển sang nguồn vốn tài chính (tiền bồi thường); nguồn vốn vật chất tăng nhờ người dân dùng tiền bồi thường về mua đất làm nhà, mua sắm trang thiết bị sinh hoạt trong gia đình. Tuy nhiên, nguồn vốn con người có vai trò quan trọng nhất, được đánh giá thông qua giáo dục, sức khỏe tốt và kỹ năng làm việc lại chưa thấy sự thay đổi căn bản.

Từ việc nghiên cứu, đánh giá thực trạng các hoạt động và tạo lập sinh kế từ kinh phí bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp. Các tác giả đã đề xuất bộ tiêu chí đảm bảo sinh kế bền vững khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp và đổi mới hình thức bồi thường, hỗ trợ cho người dân. Cùng với đó là số giải pháp thực hiện bộ tiêu chí đảm bảo sinh kế bền vững khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp và đổi mới hình thức bồi thường, hỗ trợ cho người dân.

Đó là, tiếp tục hoàn thiện các quy định về nguyên tắc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp theo hướng sinh kế người dân sau khi thu hồi đất nông nghiệp phải tốt hơn hoặc bằng trước khi thu hồi đất.

Ảnh minh họa

Hoàn thiện quy định về xác định giá đất bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp theo hướng xem xét điều chỉnh quy định thời điểm tính giá bồi thường là thời điểm có quyết định thu hồi đất; Xem xét, hoàn thiện thêm về quy trình định giá đất đều do cơ quan hành chính nhà nước thực hiện để người có đất nông nghiệp thu hồi đất tham gia vào quy trình này.

Hoàn thiện các quy định về thông báo thu hồi đất theo hướng tiến hành việc tham vấn ý kiến người dân với Nhà nước và chủ đầu tư.

Hoàn thiện các quy định về hỗ trợ theo hướng nên có chính sách bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm hưu trí đối với người bị thu hồi đất nông nghiệp.

Ngoài ra cần đào tạo nghề và giải quyết việc làm theo hướng thực hiện nghiêm túc và có hiệu quả chủ trương yêu cầu các doanh nghiệp có dự án đầu tư phải bố trí lao động địa phương vào làm việc trong các doanh nghiệp. Yêu cầu các doanh nghiệp có dự án đầu tư trên địa bàn phải bố trí lao động thuộc nhóm đối tượng có đất nông nghiệp thu hồi ở địa phương vào làm việc tại doanh nghiệp cần chính sách hóa các tiêu chí đảm bảo sinh kế bền vững cho người dân (dựa trên năm nguồn vốn gồm vốn con người, vốn vật chất, vốn xã hội, vốn tài chính và vốn tự nhiên) để có tính chất bắt buộc khi xây dựng các phương án thu hồi đất nông nghiệp, bồi thường, hỗ trợ cho người dân.

Cần hoàn thiện chính sách hỗ trợ và ổn định cuộc sống theo hướng bổ sung quy định trợ cấp cho người dân sau khi bị thu hồi đất không có việc làm và thiếu việc làm đặc biệt đối với hộ chính sách và hộ nghèo, lao động trên 35 tuổi theo hướng cần được đảm bảo sinh kế sau khi mất đất cho tới khi sinh kế mới được hình thành.

Cần tăng cường vai trò cộng đồng trong việc tham gia công tác bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất nông nghiệp.

Bộ tiêu chí đảm bảo sinh kế bền vững cho người dân khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp là bộ tiêu chí khung, đối với mỗi dự án thu hồi đất nông nghiệp, tùy theo từng điều kiện kinh tế, xã hội, văn hóa, phong tục mỗi nơi để có những chi tiết hoặc điều chỉnh cho phù hợp nhưng phải theo nguyên tắc phân tích đầy đủ 5 nguồn vốn tạo sinh kế và bù đắp được những thiếu hụt đối với mỗi nguồn vốn ở từng dự án.

Theo đó, kết quả nhiệm vụ Điều tra thoái hóa đất kỳ đầu đã được UBND tỉnh phê duyệt tại Quyết định số 3155/QĐ-UBND ngày 8/12/2017. Tổng diện tích điều tra trên 1,2 triệu ha, thực hiện trên các loại đất sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, đất chưa sử dụng. Tổng diện tích đất bị thoái hóa là hơn 777.000ha, chiếm trên 61% tổng diện tích điều tra. Trong đó, diện tích đất bị thoái hóa nặng chiếm 52,69%; thoái hóa trung bình chiếm 25,29%; thoái hóa nhẹ chiếm 22%.

Việc điều tra thoái hóa đất kỳ đầu cũng phân loại đất bị thoái hóa theo từng loại đất. Gồm: Đất sản xuất nông nghiệp bị thoái hóa chiếm trên 71% diện tích đất sản xuất nông nghiệp của tỉnh; đất lâm nghiệp bị thoái hóa chiếm 31,83% diện tích đất lâm nghiệp; đất chưa sử dụng bị thoái hóa chiếm 93,29% diện tích đất chưa sử dụng.

Nhiệm vụ điều tra, đánh giá chất lượng, tiềm năng đất đai đã được UBND tỉnh phê duyệt kết quả tại Quyết định số 2350/QĐ-UBND ngày 28/10/2020. Tổng diện tích điều tra đánh giá chất lượng đất là 626.024ha, trong đó, chất lượng đất cao chiếm 3,67%; chất lượng đất trung bình chiếm 54,6%; chất lượng đất thấp chiếm 41,73%.

Việc triển khai điều tra, đánh giá đất đai trên địa bàn tỉnh Sơn La thời gian qua đã góp phần tăng cường quản lý nhà nước về đất đai, khai thác sử dụng đất tiết kiệm, hiệu quả.

Cùng với đó, đã tiến hành điều tra, đánh giá tiềm năng đất đai trên diện tích 627.499,5ha. Trong đó, tiềm năng cao chiếm 0,28% diện tích điều tra, phân bố chủ yếu ở các huyện Mai Sơn, Mộc Châu, Sông Mã, TP Sơn La… Mức tiềm năng trung bình chiếm 54%, tập trung ở các huyện Mộc Châu, Sông Mã, Yên Châu và thấp nhất tại Mường La. Mức tiềm năng thấp chiếm 45,7%, nhiều nhất ở Phù Yên và ít nhất ở TP Sơn La.

Thông qua thực hiện nhiệm vụ, đã đánh giá thực trạng chất lượng, tiềm năng đất đai, làm cơ sở đề xuất giải pháp bảo vệ, định hướng khai thác, sử dụng hiệu quả tài nguyên đất đai. Xây dựng bản đồ chất lượng đất, tiềm năng đất đai lần đầu làm cơ sở cung cấp dữ liệu, tiến tới xây dựng và hoàn thiện hệ thống thông tin đất đai hiện đại, tập trung, thống nhất, phục vụ đa ngành, đa mục tiêu.

Nhiệm vụ điều tra, đánh giá ô nhiễm đất và phân hạng đất nông nghiệp lần đầu được UBND tỉnh phê duyệt Đề cương và dự toán nhiệm vụ tại Quyết định 2560/QĐ-UBND ngày 20/10/2021. Qua đó, nhằm điều tra, đánh giá ô nhiễm đất, phân hạng đất nông nghiệp nhằm đánh giá đầy đủ, toàn diện, chính xác, khoa học thực trạng ô nhiễm đất cũng như phân hạng đúng nguồn tài nguyên đất nông nghiệp của tỉnh, làm cơ sở đề xuất chính sách tăng cường quản lý nhà nước về đất đai, biện pháp cải tạo đất, bảo vệ đất, khai thác sử dụng đất hiệu quả về số lượng, chất lượng, phục vụ phát triển KT-XH thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Dự án được thực hiện trong giai đoạn 2021-2023.

Tác phẩm tham gia dự thi có thể là bài viết, hình về hoặc mô phỏng ý tưởng về mô hình ứng phó với biến đôi khí hậu, giảm nhẹ rủi ro thiên tai trong tương lai hoặc đã được ứng dụng trong thực tế tại Việt Nam. Các tác phẩm tiêu biêu, xuất sắc được lựa chọn sẽ được tuyên truyền, phổ biến rộng rãi nhằm nâng cao hiệu quả ứng phó với biến đổi khí hậu, giảm nhẹ rủi ro thiên tai.

Ban Tổ chức Cuộc thi trân trọng kính mời các tổ chức, cá nhân, cán bộ quản lý, chuyên gia, nhà khoa học, các giảng viên, sinh viên/học viên cùng cộng đồng người dân quan tâm, có ý tưởng về mô hình ứng phó với biến đổi khí hậu, giảm nhẹ rủi ro thiên tai gửi tác phẩm dự thi về Cục Biến đổi khí hậu, Bộ Tài nguyên và Môi trường, số 10 Tôn Thất Thuyết, Nam Từ Liêm, Hà Nội đến hết ngày 30 tháng 6 năm 2022.

Thông tin chi tiết về Cuộc thi được đăng tải trên Cổng thông tin điện tử Cục Biến đổi khí hậu (www.dcc.gov.vn) và Cổng thông tin điện tử Bộ Tài nguyên và Môi trường (www.monre.gov.vn) hoặc liên hệ qua số điện thoại 0903.682.899/0968.932.986, thư điện tử: mohinhungphobdkh@gmail.com.

Nhà máy Điện rác Seraphin là nhà máy xử lý rác thải bằng công nghệ lò ghi cơ học xuất xứ châu Âu, đã được cải tiến cho phù hợp với rác thải không phân loại tại Hà Nội.

Dự án có tổng mức đầu tư 3.500 tỷ đồng, công suất xử lý 1.500 tấn rác/ngày-đêm, công suất phát điện 37MW, diện tích sử dụng đất 2,5ha. Thời gian xây dựng dự kiến là 20 tháng. Sau khi hoàn thành và đi vào vận hành sẽ giúp giảm thể tích chôn lấp rác thải từ 100% xuống 3%, bảo đảm các tiêu chuẩn châu Âu EU 2010/75/EC về khí thải, nước thải, mùi, tiếng ồn.

Các tiêu chí về khí thải, nước thải, mùi, tiếng ồn… cũng sẽ được gửi trực tuyến tới Sở Tài nguyên và Môi trường, UBND thành phố. Đồng thời, ngay tại cổng nhà máy cũng đặt bảng điện tử hiển thị các thông số để chính quyền và nhân dân địa phương cùng giám sát.

Phát biểu tại buổi lễ, Phó Chủ tịch UBND thành phố Nguyễn Trọng Đông nhấn mạnh định hướng của Thủ đô trong xử lý rác bằng công nghệ hiện đại, coi rác là tài nguyên để tái sử dụng, tạo năng lượng, góp phần cải thiện môi trường và phát triển kinh tế.

Phó Chủ tịch UBND thành phố Nguyễn Trọng Đông đề nghị, các Sở, ngành, địa phương liên quan tích cực phối hợp, hướng dẫn chủ đầu tư triển khai dự án bảo đảm chất lượng, đúng tiến độ, sớm đưa Nhà máy Điện rác Seraphin đi vào hoạt động.

Máy vớt rác làm từ rác

Chiếc máy vớt rác trôi nổi trên sông với hơn 70% thành phần cấu tạo được làm từ vật liệu tái chế đã đạt giải Nhất trong cuộc thi “Ý tưởng sáng tạo vì một đại dương không rác thải nhựa” do UNESCO tổ chức năm 2020. Đây là sản phẩm của một nhóm bạn trẻ, đứng đầu là giảng viên sinh năm 1991 Huỳnh Ngọc Thái Anh, Khoa Công nghệ Thông tin và Truyền thông, Trường Đại học Cần Thơ

Với thế mạnh từ chuyên môn là công nghệ thông tin, Thái Anh đã tạo ra chiếc máy vớt rác WSCA 2.0 khắc phục được nhược điểm của máy vớt rác do Nhật Bản tài trợ, đó là tự động hóa thay vì điều khiển máy bằng sức người. Đồng thời, máy vớt rác nhỏ gọn, vận hành đơn giản và tự động, dễ dàng nhân rộng, chi phí rẻ và giảm ngay lượng rác thải nhựa tại nguồn.

Thái Anh cho biết, chiếc máy vớt rác WSCA 2.0 được UNESCO trao giải Nhất đã là phiên bản thứ 2. Trước đó, nhóm đã cho chạy thử phiên bản 1 trong dự án CaiRang Green River, thu gom rác ở khu vực chợ nổi Cái Răng (Cần Thơ).

Ở phiên bản này, máy hoạt động theo nguyên lý băng tải, rác được cuốn vào băng chuyền và chuyền xuống hộc chứa. Mỗi lần chứa được từ 15-20kg rác thải nhựa.

Ở phiên bản thứ hai, máy được cải tiến, sử dụng được năng lượng mặt trời và tích hợp điều khiển bằng điện thoại thông minh. Nhờ vậy, hoạt động của động cơ lưới cuộn, chân vịt, hệ thống đèn báo và chiếu sáng cho thiết bị khi vận hành vào buổi tối hoàn toàn tự động.

Thái An cho biết thêm chiếc máy vớt rác WSCA 2.0 đang được vận hành tại khu vực sông Hoài (Cù Lao Chàm, tỉnh Quảng Nam) thay vì vùng Đồng bằng sông Cửu Long là do yêu cầu của UNESCO khi triển khai các mô hình tại những điểm “nóng” về ô nhiễm môi trường, nhất là những điểm du lịch nổi tiếng.

Hiện tại, nhóm đang nghiên cứu để tiếp tục nâng cấp và nhân rộng mô hình chiếc máy vớt rác tự động này để có thể vận hành tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long trong thời gian sớm nhất.

Ở phiên bản tới, máy vớt rác WSCA sẽ tích hợp công nghệ camera quan trắc, được lập trình trí tuệ nhân tạo để nhận dạng rác nổi và camera 360 xây dựng nội dung đa phương tiện thực tế ảo.

Các công nghệ này sẽ giúp các nhà nghiên cứu về môi trường thu nhận thông tin về ô nhiễm, rác thải nhựa… một cách trung thực, nhanh chóng; trên cơ sở đó, thiết lập các chương trình tuyên truyền về biến đổi khí hậu, rác thải nhựa… thiết thực và thuyết phục nhất.

Máy vớt rác WSCA 2.0 vận hành tại sông Hoài (Quảng Nam). (Ảnh: TTXVN)

Biến vỏ sầu riêng, bã mía thành than hữu cơ không khói

Tại Đồng Nai, tận dụng nguồn phế phẩm nông nghiệp là vỏ sầu riêng và bã mía, hai học sinh Võ Hưng Thái và Nguyễn Thái Đăng Khoa (lớp 8/1, Trường THCS Nguyễn Chí Thanh, huyện Tân Phú) đã nghiên cứu tạo thành than hữu cơ không khói.

Theo tìm hiểu của nhóm dự án, hiện nay, mỗi năm Việt Nam sản xuất được khoảng 500 ngàn tấn sầu riêng, tạo ra lượng phế phụ phẩm khoảng 300 ngàn tấn/năm; sản lượng mía trên cả nước là 16 triệu tấn/năm, sau chế biến tạo ra lượng bã mía khoảng 4 triệu tấn/năm.

Riêng tại địa bàn huyện Tân Phú hiện có 1.950ha trồng sầu riêng. Lượng vỏ sầu riêng và bã mía sau khi thu hoạch đa phần được bà con nông dân đốt trực tiếp để thải bỏ. Nhận thấy bã mía và sầu riêng có thể sử dụng để sản xuất than không khói, cô – trò trường học vùng sâu này đã bắt tay vào nghiên cứu. Nhóm hy vọng việc nghiên cứu sản xuất thành công than không khói từ bả mía, vỏ sầu riêng sẽ tận dụng được hết nguồn phế phẩm nông nghiệp của địa phương, đồng thời góp phần khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường, đảm bảo sức khỏe con người.

Theo tính toán của nhóm, loại than hữu cơ này nếu được đầu tư sản xuất hoàn toàn có khả năng thương mại hóa. Trong thời gian tới, nhóm sẽ tiếp tục nghiên cứu để tìm ra tỷ lệ phối trộn hợp lý, tối ưu hơn.

* Hoàn thiện cơ sở dữ liệu viễn thám quốc gia

Theo Cục trưởng Cục Viễn thám quốc gia, Đề án “Ứng dụng viễn thám phục vụ phát triển kinh tế – xã hội” là Đề án liên ngành, liên vùng với sự tham gia thực hiện của các Bộ, ngành, địa phương nhằm tạo lập được hệ thống cho phép kịp thời cập nhật các thông tin, dữ liệu giám sát bằng viễn thám, góp phần chia sẻ, khai thác thông tin, dữ liệu không gian thuận tiện, tạo cơ hội cho người dân, doanh nghiệp tiếp cận gần hơn với các thông tin, dữ liệu cập nhật về hiện trạng, diễn biến, quá trình hình thành và sử dụng, khai thác của một đối tượng góp phần quản lý và phục vụ phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.

Theo đó, Đề án tập trung xây dựng, cập nhật, hoàn thiện cơ sở dữ liệu viễn thám quốc gia chia sẻ, dùng chung phục vụ phát triển kinh tế – xã hội. Trong đó, ưu tiên ứng dụng hiệu quả viễn thám đối với các hoạt động lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp; ứng dụng viễn thám về quy hoạch xây dựng và quản lý phát triển theo quy hoạch (quy hoạch đô thị; dự báo và thiết kế quy hoạch; đánh giá quá trình đô thị hóa tại Việt Nam và đề xuất các giải pháp cải tạo môi trường đô thị…); ứng dụng viễn thám về giao thông vận tải; ứng dụng viễn thám về công thương (đánh giá tiềm năng điện gió/ năng lượng mặt trời) và các hoạt động khác.

Để thực hiện Đề án, Chính phủ đã giao Bộ TN&MT chủ trì, phối hợp với các Bộ, Ngành, địa phương, có văn bản hướng dẫn và tổ chức thực hiện việc ứng dụng viễn thám phục vụ phát triển kinh tế – xã hội theo đúng chức năng, nhiệm vụ được giao.

Lễ ký kết thỏa thuận hợp tác giữa Tập đoàn Điện lực Việt Nam và Cục Viễn thám Quốc gia về ứng dụng dữ liệu ảnh, sản phẩm viễn thám vào các hoạt động ngành điện.

Với chức năng, nhiệm vụ của đơn vị quản lý nhà nước, đứng đầu về công nghệ viễn thám, Cục Viễn thám quốc gia đã tham mưu trình Bộ TN&MT ban hành văn bản số 872/BTNMT-VTQG ngày 22/02/2022 gửi các Bộ, cơ quan ngang Bộ và cơ quan trực thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh của 63 tỉnh thành phố để hướng dẫn triển khai nhiệm vụ ứng dụng viễn thám phục vụ phát triển kinh tế xã hội.

Đến thời điểm hiện nay, Cục Viễn thám quốc gia đã nhận được văn bản của 6 Bộ và 41 địa phương về việc giao đầu mối chủ trì thực hiện, cũng như đề xuất các nhiệm vụ trong kế hoạch hàng năm và kế hoạch 3 năm triển khai ứng dụng viễn thám phục vụ cho việc phát triển kinh tế – xã hội.

Cùng với đó, Cục Viễn thám quốc gia đã chủ động trong lập kế hoạch thu nhận dữ liệu viễn thám phủ trùm cả nước hàng năm làm cơ sở cung cấp đủ nhu cầu cho ứng dụng viễn thám của các Bộ, ngành địa phương. Đồng thời, Cục đang hoàn thiện cơ sở dữ liệu viễn thám quốc gia phục vụ xây dựng Chính phủ điện tử và chuyển đổi số, tạo điều kiện thuận lợi trong chia sẻ dữ liệu dùng chung cho các cơ quan nhà nước, người dân và doanh nghiệp.

Trạm thu ảnh viễn thám ở Cục Viễn thám quốc gia, số 79 Văn Tiến Dũng, quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội.

* Xây dựng thêm trạm thu ảnh viễn thám

Cũng theo ông Nguyễn Quốc Khánh, để thực hiện hiệu quả Đề án, nhu cầu thu nhận các dữ liệu viễn thám chất lượng cao, phủ rộng hơn phục vụ cho các cơ quan nhà nước, người dân và doanh nghiệp là rất lớn. Trên thực tế, Việt Nam mới chỉ có duy nhất một trạm thu tại Hà Nội được xây dựng từ năm 2007, đã được nâng cấp để thu ảnh VNREDSat-1, SPOT 6/7. Trạm thu đã sử dụng thời gian dài nên khó có thể đáp ứng việc nâng cấp để thu các thế hệ vệ tinh mới tiếp theo.

Vì vậy, để đáp ứng nhu cầu thực tiễn, Cục Viễn thám Quốc gia đang tích cực tiến hành phát triển các trạm thu mới, có tính năng hiện đại nhằm thu được một số loại vệ tinh viễn thám có độ phân giải siêu cao khác nhau. Theo đó, Cục đang tiến hành xây dựng mới một trạm thu tại Hà Nội để thu nhận dữ liệu viễn thám ra đa và quang học độ phân giải siêu cao 0,75m Kompsat 3A của Hàn Quốc và thu ảnh viễn thám radar Cosmo -SKYMED tại Cục Viễn thám quốc gia, 79 Văn Tiến Dũng, quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội.

Ảnh viễn thám được ứng dụng đo nước nông ven đảo

Cùng với việc xây mới trạm vệ tinh tại Hà Nội, Cục Viễn thám quốc gia cũng đang triển khai xây dựng Trạm dò tìm, tiếp nhận dữ liệu và Trung tâm xử lý dữ liệu ảnh vệ tinh tại Khu công nghiệp Mỹ Phước 3, huyện Bến Cát, tỉnh Bình Dương thuộc khuôn khổ hợp tác ASEAN – Ấn Độ, dự kiến sẽ đi vào vận hành từ tháng 1/2024. Khi Trạm này đi vào hoạt động sẽ tăng cường hiệu quả ứng dụng ảnh viễn thám, cho phép theo dõi, giám sát các đối tượng trên bề mặt ở nhiều mức độ khác nhau về cả không gian và thời gian, từ khái quát đến chi tiết.Bên cạnh việc xây mới trạm thu nhận dữ liệu viễn thám, Cục Viễn thám quốc gia đã và đang chú trọng việc xây dựng và ban hành các quy trình ứng dụng công nghệ mới phù hợp với điều kiện Việt Nam. Mục tiêu là nhằm có được hệ thống đồng bộ thu nhận, xử lý dữ liệu và sử dụng tư liệu ảnh viễn thám đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh ứng dụng viễn thám phục vụ phát triển kinh tế – xã hội, đưa công nghệ viễn thám trở thành một công cụ hữu dụng phục vụ công tác quản lý, giám sát đa ngành, đa lĩnh vực.

Theo Sở TN&MT tỉnh Sóc Trăng, thực hiện Chiến lược quốc gia về BĐKH, tỉnh Sóc Trăng đã thực hiện dự án đánh giá tác động của BĐKH và xây dựng khung kế hoạch hành động ứng phó với BĐKH, nước biển dâng trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2011 – 2015 với 25 công trình, dự án được triển khai thực hiện với tổng mức đầu tư hơn 1.800 tỷ đồng, trong đó có 04 dự án công trình và 21 dự án phi công trình.

Trong giai đoạn 2016 – 2021, tỉnh Sóc Trăng tiếp tục triển khai tổng cộng 08 dự án thuộc Chương trình mục tiêu ứng phó với BĐKH và tăng trưởng xanh với tổng nguồn vốn thực hiện hơn 738 tỷ đồng; đồng thời, Sóc Trăng còn phối hợp với các tổ chức quốc tế triển khai thực hiện 11 chương trình, dự án với tổng mức đầu tư hơn 808 tỷ đồng nhằm góp phần ứng phó với BĐKH, nước biển dâng trên địa bàn tỉnh.

Mới đây, UBND tỉnh Sóc Trăng đã ban hành Kế hoạch hành động ứng phó với BĐKH trong giai đoạn 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Theo đó, trong thời gian tới, tỉnh Sóc Trăng sẽ triển khai 47 nhiệm vụ, dự án ưu tiên ứng phó với BĐKH, nước biển dân trên địa bàn tỉnh với tổng kinh phí thực hiện hơn 3.800 tỷ đồng.

Tỉnh Sóc Trăng còn ban hành nhiều chương trình, kế hoạch để triển khai các nhiệm vụ, giải pháp ứng phó với BĐKH như: Chương trình hành động số 28-CTr/TU của Tỉnh ủy Sóc Trăng thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 khóa XI về “Chủ động ứng phó với BĐKH, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường”; Kế hoạch số 43/KH-UBND của UBND tỉnh Sóc Trăng thực hiện Nghị quyết số 120/NQ-CP của Chính phủ về phát triển bền vững ĐBSCL thích ứng với BĐKH trên địa bàn tỉnh…

Trồng rừng phòng hộ ven biển là một trong những giải pháp mà tỉnh Sóc Trăng ưu tiên triển khai thực hiện để ứng phó với BĐKH, nước biển dâng

Song song đó, Sở TN&MT tỉnh Sóc Trăng cùng với các Sở, ban ngành, tổ chức chính trị – xã hội, hội đoàn thể, UBND các huyện, thị xã, thành phố thường xuyên tổ chức các hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục nhằm nâng cao nhận thức về BĐKH cho công chức, viên chức và người dân thông qua các hội nghị, hội thảo, phương tiện thông tin đại chúng; khuyến khích doanh nghiệp đầu tư công nghệ sản xuất thân thiện với môi trường, tiết kiệm năng lượng, ít chất thải và các-bon thấp.

Ông Ngô Thái Chân, Giám đốc Sở TN&MT tỉnh Sóc Trăng cho biết: Trong thời gian qua, tỉnh Sóc Trăng đã có nhiều nổ lực, quyết liệt trong việc chỉ đạo triển khai thực hiện các giải pháp để ứng phó với BĐKH, từ đó góp phần bảo đảm an toàn tính mạng và tài sản của người dân và sự phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh Sóc Trăng.

Cũng theo ông Ngô Thái Chân, trong thời gian tới, để ứng phó hiệu quả với BĐKH, Sở TN&MT tỉnh Sóc Trăng sẽ cùng các cơ quan, đơn vị có liên quan tập trung triển khai thực hiện Kế hoạch hành động ứng phó với BĐKH trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050; tăng cường năng lực dự báo, giám sát BĐKH; đa dạng hóa các hình thức, nội dung tuyên truyền phù hợp cho từng nhóm đối tượng, góp phần nâng cao nhận thức của người dân trong việc ứng phó với BĐKH.

Cùng với đó, triển khai xây dựng các chương trình, kế hoạch có tính khả thi để ứng phó với BĐKH cho từng giai đoạn, từng ngành, địa phương; đầu tư các công trình, dự án cấp bách khắc phục tác động của BĐKH, nước biển dâng; tăng cường hợp tác với các tỉnh, thành vùng ĐBSCL và các tổ chức quốc tế để thực hiện tốt công tác ứng phó với BĐKH trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng nói riêng và vùng ĐBSCL nói chung.

Đề án sẽ đưa ra lộ trình, các ưu tiên thực hiện công tác bảo vệ môi trường của ngành Công Thương trên địa bàn thành phố.

Trong đó, tập trung vào các cơ chế, chính sách về bảo vệ môi trường; xử lý các vấn đề môi trường cấp bách trong sản xuất công nghiệp, thương mại; ngăn chặn, kiểm soát các nguồn thải, hạn chế các rủi ro, sự cố môi trường, nhận diện và có các giải pháp ứng phó với sự cố môi trường nhằm thúc đẩy tiêu dùng bền vững.

Thực hiện Đề án, thành phố Đà Nẵng sẽ thực hiện khảo sát các hoạt động công nghiệp gồm công nghiệp nhẹ, công nghiệp nặng, công nghiệp năng lượng, khai thác tài nguyên, khoáng sản, các khu – cụm công nghiệp, khu công nghệ cao, làng nghề, các cơ sở sản xuất trong các khu này; các hoạt động thương mại. Trên cơ sở đó, xác định mục tiêu, nhiệm vụ trọng tâm bảo vệ môi trường ngành Công Thương; đề xuất các chương trình, dự án, nhiệm vụ và giải pháp triển khai đề án đến năm 2025, định hướng 2030.

Mặc dù không tiếp nhận các dự án có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường, tuy nhiên, trong các hoạt động sản xuất, thương mại sẽ làm phát sinh lượng chất thải. Do đó, việc xây dựng đề án và triển khai các phương án phòng ngừa, kiểm soát ô nhiễm ngành Công Thương là vô cùng cần thiết để bảo vệ môi trường, thực hiện các mục tiêu xây dựng Đà Nẵng – Thành phố môi trường.

Dự án nhằm mục tiêu hỗ trợ phát triển cơ sở hạ tầng tích hợp, thích ứng với biến đổi khí hậu của thành phố Hà Tĩnh và vùng phụ cận bằng các giải pháp giảm thiểu ngập lụt, phát triển giao thông liên kết vùng và các hỗ trợ kỹ thuật nhằm nâng cao đời sống người dân, phát triển đô thị bền vững, tạo động lực để phát triển kinh tế – xã hội toàn diện.

Dự án gồm 4 hợp phần chính. Gồm: Xây dựng hệ thống kênh và cống thoát nước hoàn chỉnh cho thành phố Hà Tĩnh hiện hữu; Mở rộng khả năng dự trữ và tiêu thoát nước cho thành phố Hà Tĩnh và vùng phụ cận phía Tây và Tây Nam; Phát triển hệ thống đường giao thông kết nối khu vực thích ứng với biến đổi khí hậu; Hỗ trợ kỹ thuật và tăng cường năng lực.

Dự kiến tổng mức đầu tư của dự án là hơn 142 triệu USD. Trong đó nguồn vốn vay ODA của ADB là hơn 100 triệu USD (chiếm 70,61%); còn lại là nguồn đối ứng từ ngân sách của tỉnh Hà Tĩnh.

Hiện, Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Tĩnh đang rà soát, hoàn thiện dự án để trình các bộ, ngành liên quan thẩm định, tổng hợp; tiến tới trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.

Dự án dự kiến sẽ triển khai từ năm 2024, kéo dài đến năm 2029.

Dự án này do Quỹ khí hậu xanh viện trợ không hoàn lại thông qua Chương trình phát triển Liên hợp quốc. Thời gian thực hiện dự án là 5 năm (2021 – 2026).

11 xã thuộc 4 huyện trong tỉnh là đối tượng thụ hưởng dự án. Mục tiêu nhằm tăng cường khả năng thích ứng của 5.838 nông hộ nhỏ, dễ bị tổn thương đối với tình trạng mất an ninh nước do biến đổi khí hậu trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.

Các hoạt động của dự án tại Đắk Lắk gồm: Thiết kế và xây dựng 917 hệ thống kết nối và phân phối, trong đó có lắp đặt và bảo dưỡng thiết bị tưới để ứng phó với biến đổi khí hậu; thành lập 9 nhóm sử dụng nước để vận hành và bảo dưỡng hệ thống; xây dựng hoặc nâng cấp 260 ao chống chịu với biến đổi khí hậu và thiết lập 43 nhóm quản lý ao; lắp đặt hệ thống tưới tiết kiệm nước nội đồng cho 2.335 hộ sản xuất nhỏ nghèo, cận nghèo…

Dự án cũng sẽ tổ chức đào tạo, tập huấn cho cán bộ và nông dân trong nhóm đối tượng của dự án về sử dụng, vận hành và bảo dưỡng hệ thống công nghệ tiết kiệm nước, tham gia vào chuỗi giá trị.

Ngoài Đắk Lắk, dự án này còn được thực hiện tại các tỉnh: Đắk Nông, Ninh Thuận, Bình Thuận và Khánh Hòa. Mục tiêu chung của dự án tập trung vào các nội dung như trao quyền cho các nông hộ nhỏ, đặc biệt là phụ nữ và đồng bào dân tộc thiểu số để quản lý rủi ro khí hậu ngày càng tăng trong sản xuất nông nghiệp thông qua bảo đảm nguồn nước. Đồng thời, áp dụng các thực hành nông nghiệp mang tính chống chịu khí hậu và tăng cường khả năng tiếp cận thông tin khí hậu nông nghiệp…

Hoạt động này nằm trong khuôn khổ dự án “Hỗ trợ thực hiện các sáng kiến giảm thiểu rác thải nhựa đại dương tại Việt Nam” do MCD chủ trì thực hiện với nguồn tài trợ và cố vấn kỹ thuật của Tổ chức Bảo tồn Đại dương.

Mục tiêu của dự án này nhằm thúc đẩy hợp tác giữa các bên liên quan và kết nối hỗ trợ kỹ thuật tăng cường hiệu quả các nỗ lực giảm thiểu rác thải nhựa đại dương tại Việt Nam.

Trong dự án này, MCD sẽ thực hiện các nghiên cứu đánh giá tình trạng rác thải rắn và rác thải nhựa khu vực ven sông và cửa sông ven biển, hỗ trợ tăng cường năng lực cán bộ và cộng đồng địa phương, thúc đẩy thực hiện kế hoạch hành động quản lý rác thải nhựa đại dương tại Nam Định.

Đáng chú ý, các bên liên quan đã thống nhất thúc đẩy phương thức tăng cường phối hợp giữa các đối tác công – tư – cộng đồng nhằm đẩy mạnh thực hiện hế hoạch hành động của tỉnh Nam Định.

Trước đó, đầu năm 2020, tỉnh Nam Định ban hành kế hoạch hành động về quản lý rác thải nhựa đại dương đến năm 2030.

Dự án “Khôi phục và hoàn thiện hệ thống độ cao Quốc gia Campuchia” do Chính phủ Việt Nam viện trợ kinh phí thực hiện từ năm 2016 được đánh giá là dự án quan trọng, giúp xây dựng nền tảng dữ liệu giúp Chính phủ Campuchia quản lý nguồn tài nguyên đất đai, quy hoạch đô thị, xây dựng các công trình lớn, mạng lưới thủy lợi, cơ sở hạ tầng giao thông. Đến nay dự án đã hoàn thành các hạng mục xây dựng lưới trọng lực cơ sở, hạng I, II, III và trọng lực chi tiết; xây dựng mạng lưới độ cao hạng I bổ sung và đo lưới GPS thủy chuẩn quốc gia; thiết lập mô hình Geoid độ chính xác cao cho lãnh thổ Campuchia.

Tuy nhiên do ảnh hưởng dịch COVID-19, Cục Đo đạc, Bản đồ và Thông tin địa lý Việt Nam và Tổng cục Địa chính và Bản đồ Campuchia không thể tổ chức Lễ bàn giao trực tiếp. Để đáp ứng kịp thời nhu cầu phát triển kinh tế của Campuchia, Cục Đo đạc, Bản đồ và Thông tin địa lý Việt Nam đã gửi kết quả dự án dạng số cho Bộ Quản lý đất đai, quy hoạch đô thị và Xây dựng Vương quốc Campuchia thông qua Đại sứ quán Việt Nam tại Campuchia vào ngày 8/10/2021. Các máy móc thiết bị trong gói tăng cường năng lực của dự án đã được chuyển giao cho phía Campuchia vào ngày 1/2/2022 và cơ sở dữ liệu trọng lực, khóa phần mềm được chuyển cho phía Campuchia vào ngày 28/3/2022 tại thành phố Hồ Chí Minh.

Đào tạo chuyển giao công nghệ thuộc Dự án “Khôi phục và hoàn thiện hệ thống độ cao Quốc gia Campuchia”

Theo kế hoạch đã thống nhất, hôm nay, Cục Đo đạc, Bản đồ và Thông tin địa lý Việt Nam – Bộ Tài nguyên và Môi trường và Tổng cục Địa chính và Bản đồ – Bộ Quản lý đất đai, quy hoạch đô thị và Xây dựng Vương quốc Campuchia phối hợp cùng tổ chức khóa đào tạo chuyển giao công nghệ thuộc Dự án “Khôi phục và hoàn thiện hệ thống độ cao Quốc gia Campuchia”.

Phát biểu khai mạc khóa đào tạo, ông Dương Văn Hải, Phó Cục trưởng Cục Đo đạc, Bản đồ và Thông tin địa lý Việt Nam, cho biết, khóa tập huấn diễn ra dưới hình thức trực tuyến để cán bộ của Tổng cục Địa chính và Bản đồ Campuchia có thể trao đổi với các cán bộ kỹ thuật của Cục Đo đạc, Bản đồ và Thông tin địa lý Việt Nam về những vấn đề đang vướng mắc khi triển khai đo đạc mạng lưới độ cao của Campuchia. Nếu trong thời gian khóa học không giải quyết được, hai bên sẽ tiếp tục trao đổi thông qua Email sau khi kết thúc khóa học.

Ông Dương Văn Hải, Phó Cục trưởng Cục Đo đạc, Bản đồ và Thông tin địa lý Việt Nam phát biểu khai mạc khóa đào tạo

Nhân dịp này, thay mặt Cục Đo đạc, Bản đồ và Thông tin địa lý Việt Nam, ông Dương Văn Hải bày tỏ cảm ơn chân thành tới Tổng cục Cục Địa chính và Bản đồ Campuchia đã luôn phối hợp chặt chẽ với Cục Đo đạc, Bản đồ và Thông tin địa lý Việt Nam trong suốt quá trình triển khai dự án. Đồng thời tin tưởng rằng các sản phẩm giai đoạn 2 của Dự án sẽ đáp ứng tốt công tác quy hoạch phát triển kinh tế xã hội của Campuchia góp phần xây dựng và phát triển mối quan hệ hữu nghị đặc biệt giữa hai nước theo tinh thần “Hợp tác láng giềng tốt đẹp, đoàn kết hữu nghị truyền thống, ổn định lâu dài”.

Các cán bộ kỹ thuật của Cục Đo đạc, Bản đồ và Thông tin địa lý Việt Nam hướng dẫn sử dụng các thiết bị đo RTK

Các tài liệu hướng dẫn và dữ liệu mẫu sẽ sử dụng trong quá trình tính toán bình sai đã được Cục Đo đạc, Bản đồ và Thông tin địa lý Việt Nam chuyển cho các cán bộ kỹ thuật của Tổng cục Cục Địa chính và Bản đồ Campuchia trước đó. Thông qua qua khóa học này, hai bên sẽ chia sẻ những kinh nghiệm và kiến thức liên quan đến sử dụng các thiết bị đo RTK, truyền dữ liệu, xử lý số liệu đo, tính toán và bình sai mạng lưới.

Khu vực tổ chức đấu giá quyền khai thác khoáng sản năm 2022, gồm 11 khu vực, trong đó 2 khu vực mỏ đá làm vật liệu xây dựng thông thường và 9 khu vực mỏ đất làm vật liệu san lấp.

Khu vực mỏ đá làm vật liệu xây dựng thông thường ở thôn 10, xã Lộc Hòa (huyện Phú Lộc), với diện tích 20ha, trữ lượng 8.006.276m3 và mỏ đá khu vực xã Phú Mậu, xã Hương Phú (huyện Nam Đông) với diện tích 4,8ha, trữ lượng 743.142m3.

Các mỏ đất làm vật liệu san lấp ở khu vực đồi Trung Kiền, xã Phong Thu (huyện Phong Điền) với diện tích 23,77ha, trữ lượng 1.500.000m3; Khu vực vị trí 2, thôn Phường Hóp, xã Phong An (huyện Phong Điền) với diện tích 10ha, trữ lượng 522.471m3; Khu Khe Băng 4, phường Hương Vân và xã Hương Bình (thị xã Hương Trà) với diện tích 18,1ha, trữ lượng 1.600.000m3; Khu vực đồi Khe Bội 1, phường Hương Xuân, phường Hương Vân và xã Hương Bình (thị xã Hương Trà) với diện tích 26ha, trữ lượng 2.340.000m3;

Khu vực vùng đồi 1, phường Thủy Phương (thị xã Hương Thủy) với diện tích 9,5ha, trữ lượng 800.000m3; Khu vực vùng đồi 2, phường Thủy Phương (thị xã Hương Thủy) với diện tích 14ha, trữ lượng 1.000.000m3; Khu vực đồi Trốc Voi 1, phường Thủy Phương (thị xã Hương Thủy) với diện tích 14ha, trữ lượng 1.500.000m3; mỏ đất khu vực đồi Trốc Voi 2, phường Thủy Phương (thị xã Hương Thủy) với diện tích 15ha, trữ lượng 1.000.000m3 và mỏ đất khu vực thôn 4, xã Phú Sơn (thị xã Hương Thủy) có diện tích 15ha, trữ lượng 1.200.000m3.

K.Linh

Đề tài do Ths. Lê Thị Thùy Ngoan – Kiểm toán nhà nước Khu vực IX và Ths. Nguyễn Tiến Hoàng – Kiểm toán nhà nước chuyên ngành Ia đồng chủ nhiệm đề tài.

Mục tiêu của đề tài nhằm nghiên cứu thực trạng công tác quản lý và sử dụng tài nguyên nước ở nước ta hiện nay; Đánh giá trách nhiệm của cơ quan quản lý Nhà nước trong công tác quản lý, khai thác sử dụng tài nguyên nước; Những tồn tại, hạn chế và bất cập trong công tác kiểm toán việc quản lý và sử dụng nguồn nước do Kiểm toán nhà nước Việt Nam thực hiện; Đề xuất hoàn thiện mục tiêu, nội dung, phương pháp kiểm toán việc quản lý và sử dụng nguồn nước để có những kiến nghị về đảm bảo chất lượng nguồn nước, tránh tác động tiêu cực đến an ninh nguồn nước…

Đề tài kết cấu gồm 02 chương: Tổng quan về quản lý, sử dụng tài nguyên nước và kiểm toán việc quản lý và sử dụng nguồn nước tại đồng bằng sông Cửu Long trước sự suy giảm hệ sinh thái, biến đổi khí hậu; Hoàn thiện kiểm toán việc quản lý và sử dụng tài nguyên nước tại đồng bằng sông Cửu Long.

Đề tài được Hội đồng nghiệm thu đánh giá, đã khái quát lý luận về tài nguyên nước và kiểm toán việc quản lý, sử dụng nguồn nước trước sự suy giảm hệ sinh thái, biến đổi khí hậu; các nguyên nhân ảnh hưởng đến môi trường nói chung và môi trường nước nói riêng và hậu quả của biến đổi khí hậu, nước biển dâng và vấn đề đặt ra đối với kiểm toán việc quản lý, sử dụng nguồn nước tại Đồng bằng sông Cửu Long của Kiếm toán nhà nước; kinh nghiệm nước ngoài về kiểm toán tài nguyên nước và bài học cho Kiểm toán Nhà nước.

Đồng bằng sông Cửu Long có vị trí quan trọng trong phát triển kinh tế – xã hội của nước ta, nhưng cũng chịu ảnh hưởng nặng nề do biến đổi khí hậu và nước biển dâng. Ở vị thế là một quốc gia cuối nguồn và hơn 60% lưu lượng nước phụ thuộc vào thượng nguồn nằm ngoài biên giới, Việt Nam đang đứng trước nguy cơ phải gánh chịu nhiều tác động to lớn chưa thể lường trước từ việc khai thác, sử dụng nước thiếu bền vững của các quốc gia thượng nguồn; an ninh nguồn nước gặp nhiều thách thức; nguy cơ mất an toàn trong cấp nước rất cao, trong đó đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) được đánh giá là vùng sẽ chịu ảnh hưởng nặng nề nhất.

Hiện nay, Kiểm toán Nhà nước Việt Nam đã và đang cùng với một số nước thực hiện việc kiểm toán nguồn nước sông Mekong để có những kiến nghị về đảm bảo chất lượng nguồn nước, tránh tác động tiêu cực đến an ninh nguồn nước, an sinh xã hội.

K.An

* Nhà sàn nổi ứng phó nước biển dâng

Một trong những đề xuất đáng chú ý là mô hình phát triển quy hoạch kiến trúc nhà ở theo tuyến cho khu dân cư Bình Khánh (huyện Cần Giờ, thành phố Hồ Chí Minh).

Các tuyến được tổ chức chạy dọc theo mép bờ sông hoặc có thể phát triển mô hình cư trú ngay bên trên mặt nước, tạo thành một mạng lưới cư trú nổi, nhường đất cho việc chứa nước.

Mô hình bao gồm một dãy nhà sàn nồi kéo dài hoặc nửa trên đất liền, nửa trên mặt nước, hoặc nằm hoàn toàn trên mặt nước, liên kết với nhau và với đất liền thông qua hệ thống cầu phao nổi. Riêng những khu đất ở xa bờ sông, có thể xây nhà kiên cố với nền nhà được nâng cao so với mặt đường như nhà sàn, nhà chòi, nhà lõi…

Cũng là mô hình nhà sàn nổi nhưng tại khu dân cư ở xã An Thới Đông (huyện Cần Giờ, mô hình được đưa ra là phát triển theo cụm dân cư, tập trung quanh một điểm hoạt động kinh tế chung như chợ, làng nghề để tương đồng trong sinh kế của người dân.

Theo mô hình này, mỗi cụm dân cư sẽ được quy hoạch tạo thành một cộng đồng nhỏ gồm khoảng 20-30 căn nhà, quy hoạch kiểu tập trung để thuận tiện cho nhu cầu kinh doanh, sản xuất của người dân. Trước mỗi căn nhà sẽ có khoảng – không gian mở được xử lý bằng cách đào thấp xuống 80cm, để có thể chứa được một lượng nước nhất định góp phần làm giảm cao độ mặt nước khi ngập lụt.

Khoảng không gian giữa các căn nhà sẽ được bố trí các sàn nổi để khi cả vùng bị ngập, sàn nổi này có tác dụng như điểm tiếp cận để vào bên trong nhà các ngôi nhà thông qua lối mở có tính toán trước. Những sàn nổi này trong điều kiện bình thường sẽ được sử dụng làm không gian sinh hoạt cộng đồng, nơi đậu xe, hoặc nơi hoạt động kinh tế (phơi khô thủy hải sản, đan lưới, hàng quán…).

* Vỉa hè thẩm thấu nước

Sử dụng vỉa hè thẩm thấu nước là giải pháp được đưa ra nhằm tăng khả năng thoát nước cho khu dân cư do mưa, triều cường. Đây là giải pháp bền vững hơn khi không làm biến đổi dòng chảy đột ngột như xây đập, đắp đê hay nâng cao độ nền công trình.

Nghiên cứu này đề xuất tạo hệ thống lọc tự nhiên (mương sinh học) và tuyến thẩm thấu nhằm xây dựng hệ thống thu nước ngầm trong lòng đất, bên dưới tuyến đường giao thông và không gian xanh tự nhiên. Khi bị ngập, nước tràn trên mặt đường và sẽ được dẫn hướng chảy qua vỉa hè, đến mương sinh học. Mương này có độ dốc từ 1-5%, được bao phủ bởi các lớp cỏ cây, thảm thực vật hoặc phân hữu cơ. Dòng chảy của mương sinh học được thiết kế sâu và rộng nhằm tối ưu hóa việc thẩm thấu nguồn nước bề mặt. Đáy của mỗi mương được thiết kế chứa nhiều đá và cát để tăng cường khả năng thấm hút. Khi có mưa, phần lớn nước thấm qua các kẽ gạch xuống lớp cát đá bên dưới, rồi chảy xuống cống để thoát ra kênh rạch, nước tiêu thoát rất nhanh, giúp giảm thiểu tối đa tình trạng ngập do triều cường.

Mục tiêu của giải pháp này nhằm tạo ra những không gian trống có khả năng tạm thời trữ nước khi có hiện tượng ngập do triều cường, hướng đến việc tìm đường cho nước thoát, để nước xâm nhập vào khu vực có dân cư theo cách có thể kiểm soát được, từ đó chủ động chống ngập.

K.Anh (tổng hợp)

Đối với công nghệ chế biến rác thành mùn hữu cơ (compost) có 2 khu xử lý (KXL) đang áp dụng công nghệ, thiết bị xử lý của Việt Nam chế tạo sản xuất là Túc Trưng (H.Định Quán), Xuân Tâm (H.Xuân Lộc) và có 2 KXL áp dụng công nghệ thiết bị của nước ngoài chế tạo sản xuất là KXL ở xã Quang Trung (H.Thống Nhất) và xã Vĩnh Tân (H.Vĩnh Cửu). Công nghệ đốt chất thải bằng lò đốt 2 cấp nhiệt độ cao có 4 KXL đang áp dụng công nghệ, thiết bị của Việt Nam chế tạo sản xuất: Xuân Tâm, Túc Trưng, Xuân Mỹ (H.Cẩm Mỹ), Tây Hòa (H.Trảng Bom). KXL Bàu Cạn (H.Long Thành) áp dụng công nghệ chôn lấp hợp vệ sinh nhưng đã bị tạm ngưng do không đảm bảo được tỷ lệ chôn lấp trong xử lý chất thải rắn sinh hoạt tỉnh đưa ra.

Tại chuyến đi khảo sát, nắm bắt tiến độ đầu tư, tình hình hoạt động các KXL chất thải trên địa bàn tỉnh mới đây, ông Nguyễn Hồng Lĩnh, Bí thư Tỉnh ủy yêu cầu, các KXL chất thải ưu tiên công nghệ xử lý triệt để chất thải, không chôn lấp chất thải nguy hại kể cả chôn lấp hợp vệ sinh. UBND tỉnh xem lại quyết định mức giá trần xử lý chất thải sinh hoạt, khung giá có thể đẩy lên nếu doanh nghiệp đầu tư công nghệ hiện đại, xử lý triệt để chất thải, như vậy mới khuyến khích doanh nghiệp đầu tư.

Bí thư Tỉnh ủy cũng yêu cầu Sở Tài nguyên và Môi trường, Ban Cán sự Đảng UBND tỉnh tổng hợp các khó khăn, vướng mắc, đề xuất của các chủ đầu tư KXL chất thải trên địa bàn tỉnh. Sau đây một tuần, Ban cán sự Đảng của Tỉnh ủy sẽ làm việc cụ thể về vấn đề này.

PV

Theo đó, tỉnh Nam Định vừa phát động chương trình “Làm sạch môi trường”, thu gom rác thải, dọn dẹp làm sạch khu vực bờ biển Xương Điền (tỉnh Nam Định).

Lễ phát động có sự tham gia của cán bộ, chiến sĩ Đồn Biên phòng Văn Lý (Bộ đội Biên phòng tỉnh Nam Định), hơn 200 học sinh Trường Trung học Cơ sở Hải Lý, Đoàn thanh niên xã Hải Lý.

Hoạt động nằm trong khuôn khổ Chiến dịch Bờ biển xanh do Let’s Do It Hanoi tổ chức, nhằm nâng cao nhận thức cộng đồng trong việc chung tay bảo vệ môi trường, góp phần hướng tới lối sống bền vững – thân thiện với môi trường, từ đó thay đổi diện mạo môi trường biển Việt Nam.

Tại huyện Côn Đảo (Bà Rịa – Vũng Tàu), Chi đoàn Đồn Biên phòng Côn Đảo và các Chi đoàn kết nghĩa tại huyện Côn Đảo đã ra quân dọn dẹp, vệ sinh môi trường và thu gom rác thải được hơn 1km bờ biển.

Đây là hoạt động nhằm khơi dậy tinh thần cống hiến, nhiệt huyết của tuổi trẻ BĐBP chung tay bảo vệ môi trường biển, đảo; tạo khí thế sôi nổi chào mừng Đại hội Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh các cấp, tiến tới Đại hội Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh toàn quốc lần thứ XII, nhiệm kỳ 2022-2027. Đồng thời, giáo dục nâng cao nhận thức cho đoàn viên, thanh niên ý thức bảo vệ môi trường; tuyên truyền cho người dân, du khách về tinh thần tự giác bảo vệ môi trường biển…

Cụ thể, trên cơ sở kết quả nhận định dòng chảy về Đồng bằng sông Cửu Long và dự báo triều tháng 4/2022, do ảnh hưởng của xâm nhập mặn từ tháng 3/2022 vào sâu hơn so với trung bình nhiều năm, nên trong tháng 4 đường ranh mặn 1g/l trên ba nhánh sông lớn là sông Hậu, sông Tiền và sông Vàm Cỏ Tây được nhận định là cũng sẽ vào sâu hơn từ 2-6 km so với trung bình nhiều năm nhưng ít hơn so với xâm nhập mặn cùng kỳ tháng 04/2021 từ 1-3 km.

Đối với ranh mặn 4g/l, trên ba nhánh sông Hậu, sông Tiền và sông Vàm Cỏ Tây, ranh mặn cũng có thể sẽ vào sâu hơn so với trung bình nhiều năm từ 2-4 km, nhưng ít hơn so với tháng 04/2021 từ 1-3 km.

Nhìn nhận lại tháng 3, do dòng chảy về Đồng bằng sông Cửu Long tiếp tục bị sụt giảm vào đầu tháng và ảnh hưởng của triều cường, nên hiện tượng xâm nhập mặn vùng ven biển trong tháng 3/2022 tiếp tục tăng so với tháng 2/2022. Đường ranh mặn 1g/l trong tháng 3/2022 trên ba nhánh sông lớn là sông Hậu, sông Tiền và sông Vàm Cỏ Tây đều vào sâu hơn so với cùng kỳ trung bình nhiều năm từ 1 km đến 3 km. Tương tự, đường ranh mặn 4g/l trên ba nhánh sông vào sâu hơn so với trung bình nhiều năm từ 2-3 km, và ít hơn so với tháng 03/2021 từ 2-3 km.

Hải Đăng

Theo các kết quả khoanh định, tại các tầng chứa nước dưới đất trên địa bàn đô thị Bạc Liêu tồn tại vùng hạn chế 1 và vùng hạn chế 3; không có vùng hạn chế 2 và vùng hạn chế 4. Vùng hạn chế khai thác nước dưới đất phân bố trong vùng nước nhạt của tầng, với nhiều khoảnh rải rác ở các phường xã với tổng diện tích là 30,00 km2, chiếm 14,0% diện tích phân bố tầng chứa nước.

Vùng hạn chế 1 (khu vực có nguy cơ sụt, lún đất, xâm nhập mặn, gia tăng ô nhiễm do khai thác nước dưới đất) có diện tích 0,74 km2, phân bố với nhiều khoảnh nhỏ rải rác ở các phường 1, 2, 5, 8, Nhà Mát và các xã Hiệp Thành, Vĩnh Trạch – đây là nơi phân bố các bãi rác, nghĩa trang tập trung, khu vực sụt lún nền đất (≥5 cm/năm); các vùng hạn chế 1 này không thuộc vùng chồng lấn với các vùng hạn chế khác.

Vùng hạn chế 3 (khu đô thị, khu dân cư tập trung ở nông thôn, khu, cụm công nghiệp tập trung, làng nghề đã có hệ thống cấp nước tập trung và dịch vụ cấp nước bảo đảm đáp ứng yêu cầu chất lượng, số lượng) có diện tích là 27,99km2, phân bố dạng dải hẹp kéo dài qua hầu hết các địa phương trên địa bàn Tp. Bạc Liêu – đây là nơi phân bố mạng lưới cấp nước tập trung đô thị và nông thôn; các vùng hạn chế 3 này không thuộc vùng chồng lấn với các vùng hạn chế khác.

Vùng hạn chế hỗn hợp 1-3: có diện tích 1,27 km2, đây là vùng chồng lẫn giữa vùng hạn chế 1 và vùng hạn chế 3, phân bố trong vùng nước nhạt với các khoảnh rời rạc tại địa phương thuộc Tp. Bạc Liêu; các vùng này gồm: khu vực có mạng lưới cấp nước tập trung, khu vực có nguy cơ sụt lún cao hoặc khu vực gần biên mặn, hoặc khu vực phân bố các bãi rác nghĩa trang tập trung.

Vùng không hạn chế khai thác nước dưới đất: đây là vùng phân bố nước nhạt không thuộc các vùng hạn chế ở trên; vùng này phân bố ở hầu hết các phường xã tại Tp. Bạc Liêu (trừ Phường 3 và 7). Tổng diện tích vùng không hạn chế khai thác nước dưới đất là 183,81 km2.

Minh Đăng

Vùng hạn chế 1, bao gồm các khu vực đã từng xảy ra sự cố sụt, lún đất, biến dạng địa hình; Khu vực có biên mặn, có hàm lượng tổng chất rắn hòa tan (TDS) từ 1.500 mg/l trở lên; Khu vực có bãi chôn lấp chất thải rắn tập trung theo quy định của pháp luật về quy hoạch, xây dựng và bảo vệ môi trường; Khu vực có giếng khai thác nước dưới đất bị ô nhiễm, gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con người và sinh vật mà chưa có giải pháp công nghệ để xử lý để bảo đảm đạt quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng nước ăn uống, sinh hoạt; Khu vực có nghĩa trang tập trung hoặc các khu vực có nguy cơ gây ô nhiễm nguồn nước dưới đất khác do UBND các tỉnh, thành phố quyết định.

Vùng hạn chế 2, bao gồm các tầng chứa nước lỗ hổng ở thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và các địa phương thuộc khu vực đồng bằng sông Hồng, đồng bằng sông Cửu Long; Đối với các tầng chứa nước lỗ hổng ở các địa phương khác thì UBND cấp tỉnh căn cứ quy mô, mức độ khai thác nước dưới đất, mức độ hạ thấp mực nước dưới đất và yêu cầu về bảo vệ nguồn nước dưới đất trên địa bàn quyết định việc khoanh định; các tầng chứa nước trong đá bazan ở các địa phương thuộc khu vực Tây Nguyên.

Vùng hạn chế 3, bao gồm các khu đô thị, khu dân cư tập trung ở nông thôn, khu, cụm công nghiệp tập trung, làng nghề đã có hệ thống cấp nước tập trung và dịch vụ cấp nước bảo đảm đáp ứng yêu cầu chất lượng, số lượng.

Vùng hạn chế 4, bao gồm các khu vực có nguồn nước mặt có khả năng đáp ứng ổn định cho các nhu cầu sử dụng nước.

Vùng hạn chế hỗn hợp là vùng có diện tích chồng lấn giữa các vùng hạn chế 1, 2, 3 hoặc 4.

Vân Khánh

Ban chỉ đạo do ông Nguyễn Quỳnh Thiện, Phó Chủ tịch UBND tỉnh, Trưởng ban. Ban chỉ đạo có 3 Phó ban và 22 ủy viên.

Ban Chỉ đạo có nhiệm vụ tham mưu, giúp UBND tỉnh chỉ đạo, triển khai thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp về phát triển bền vững kinh tế biển tỉnh Trà Vinh; đồng thời chủ động kiểm tra, đôn đốc, kịp thời giải quyết theo thẩm quyền hoặc kiến nghị giải quyết các vấn đề khó khăn, vướng mắc trong việc triển khai thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế biển.

Ban chỉ đạo triển khai thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế biển gắn với khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên và bảo vệ môi trường biển trên địa bàn tỉnh; phối hợp với các Sở, ban, ngành tỉnh và UBND các huyện, thị xã có biển xây dựng kế hoạch, thực hiện có hiệu quả Kế hoạch thực hiện Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 trên địa bàn tỉnh Trà Vinh.

Định kỳ hàng năm, Ban chỉ đạo tổ chức sơ kết, tổng kết đánh giá kết quả thực hiện báo cáo Tỉnh ủy, UBND tỉnh, Bộ Tài nguyên và Môi trường.

Ban Chỉ đạo làm việc theo chế độ kiêm nhiệm, Trưởng Ban Chỉ đạo sử dụng con dấu của UBND tỉnh, các Phó Trưởng Ban Chỉ đạo sử dụng con dấu của cơ quan nơi công tác, Ban Chỉ đạo là đơn vị hợp tan, tự giải thể sau khi hoàn thành nhiệm vụ.

Theo đó, Bộ TN&MT tập trung đổi mới toàn diện công tác quản lý, sử dụng đất đai theo hướng thống nhất, hiện đại đồng bộ với cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tài nguyên đất được điều tra, đánh giá, thống kê, kiểm kê, hạch toán đầy đủ, phân bổ hợp lý, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả và bền vững. Nguồn lực đất đai thực sự là nguồn lực quan trọng phục vụ các mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội gắn với bảo vệ môi trường, tạo nền tảng để đến năm 2045 nước ta trở thành nước phát triển có thu nhập cao. Đồng thời xây dựng Bộ Luật Đất đai và hệ thống pháp luật đầy đủ, thống nhất, vận hành đồng bộ cơ chế quản lý, sử dụng đất phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Do vậy, định hướng đến năm 2030, ngành đặt mục tiêu hoàn thành lập hệ thống giá đất theo thị trường phù hợp với tiêu chuẩn định giá quốc tế; hệ thống hạch toán tài nguyên đất. Tổng thu từ thuế quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất trên GDP ngang tỷ lệ trung bình của nhóm quốc gia có mức thuế tài sản thấp nhất trong khối OECD. Phấn đấu duy trì nguồn thu bền vững hàng năm từ đất đai đạt từ 15-20% tổng thu ngân sách nội địa. Hoàn thành chuyển đổi số trong lĩnh vực quản lý đất đai và cung cấp dịch vụ công. Nâng cao chỉ số tiếp cận đất đai đạt tốp 1 của ASEAN, các thủ tục về đất đai đạt mức độ 5; mức độ hài lòng của người dân, doanh nghiệp về giải quyết thủ tục hành chính về lĩnh vực đất đai đạt tối thiểu 95%. Phục hồi tối thiểu 30% diện tích đất đai bị thoái hóa, sa mạc hóa, ô nhiễm, bào mòn, sạt lở, xâm nhập mặn.

Các định hướng đổi mới chính sách, pháp luật cụ thể như sau:

Một là, chế định cụ thể chế độ sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý đối với đất đai, quyền, trách nhiệm và mối quan hệ của các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp trong thực hiện vai trò đại diện chủ sở hữu đối với đất đai.

Nhà nước với vai trò đại diện chủ sở hữu đối với đất đai thực hiện các quyền: (i) phân bổ, quyết định mục đích sử dụng đất thông qua quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất và bảo vệ không gian lãnh thổ, không gian sinh tồn của dân tộc; (ii) giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất, chuyển mục đích sử dụng đất; thu hồi đất, trưng dụng để sử dụng cho quốc phòng an ninh, phát triển kinh tế – xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng; mua trước đối với trường hợp người sử dụng đất đăng ký giá chuyển nhượng thấp;quyết định thời hạn, hạn mức sử dụng đất, chính sách tài chính về đất đai, giá đất; giải quyết tranh chấp, khiếu nại về đất đai; (iii) quy định trách nhiệm công khai thông tin, giải trình của cơ quan nhà nước trước Nhân dân;tạo điều kiện thuận lợi cho người dân giám sát và tham gia vào quá trình thực hiện quyền, trách nhiệm của đại diện chủ sở hữu.

Người dân có quyền tiếp cận thông tin; giám sát về quản lý, sử dụng đất đai; thông qua các cơ quan đại diện là Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp để tham gia ý kiến về các vấn đề về xây dựng pháp luật, quy hoạch, kế hoạch,… Đồng thời, có trách nhiệm và nghĩa vụ bảo vệ lãnh thổ, tài nguyên, không gian sinh tồn, phòng chống sa mạc hóa, thoái hóa đất, ô nhiễm môi trường, bào mòn, sạt lở, xâm nhập mặn.

Hai là, đổi mới nâng cao chất lượng công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng từ Trung ương đến địa phương đảm bảo đồng bộ, thống nhất đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Quy hoạch giữ ổn định lâu dài trồng lúa, đất rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, đất có rừng tự nhiên; cân đối các chỉ tiêu sử dụng đất trồng lúa dựa vào các kịch bản về an ninh lương thực, dân số, cơ cấu lương thực, thực phẩm, chỉ tiêu đảm bảo không gian sinh tồn, hệ sinh thái tự nhiên, nông nghiệp. Điều chỉnh hệ thống phân loại đất đai, bổ sung chỉ tiêu quy hoạch đất đai phù hợp với thực tiễn, theo không gian và chức năng sử dụng[1], đảm bảo hài hòa giữa các yêu cầu về kinh tế, xã hội, môi trường, quốc phòng và an ninh.

Quy định tiêu chí đánh giá hiệu quả kinh tế, xã hội, môi trường khi lựa chọn phương án quy hoạch sử dụng đất, dự án đầu tư có sử dụng đất, dự án có chuyển đổi mục đích sử dụng đất lúa, đất rừng phòng hộ, rừng đặc dụng, dự án sử dụng đất do các cơ quan, đơn vị của nhà nước đang sử dụng, dự án lấn biển.

Ban hành quy định, cơ chế kiểm tra, giám sát thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, hạn chế tình trạng phải điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất trước thời hạn; sự tham gia và giám sát của người dân trong quá trình lập và thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.

Ba là, hoàn thiện các quy định về giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất, công nhận quyền sử dụng đất, điều chỉnh, phân bổ tài nguyên, nguồn lực đất đai và các lợi ích mang lại từ đất công khai, công bằng, bình đẳng. Mở rộng đối tượng giao đất, cho thuê đất thông qua đấu giá quyền sử dụng đất; thu hẹp các trường hợp giao đất, cho thuê đất không thông qua đấu giá, giao đất không thu tiền sử dụng đất. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế để người sử dụng đất lựa chọn hình thức trả tiền thuê đất hàng năm hoặc thuê đất trả tiền một lần cho cả thời gian thuê. Không thực hiện việc giao đất, cho thuê đất thông qua đấu thầu dự án có sử dụng đất.

Tạo điều kiện thuận lợi để người sử dụng đất được chuyển mục đích sử dụng đất theo quy hoạch và pháp luật. Người trực tiếp sản xuất được linh hoạt chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên quỹ đất trồng lúa theo thị trường nhưng không làm thay đổi địa hình, kết cấu đất, làm thoái hóa, ô nhiễm đất để có thể chuyển đổi trở lại trồng lúa trở lại khi cần thiết.

Ban hành chính sách giao đất, công nhận quyền sử dụng đất ở, đất nông nghiệp không phải là đất rừng đặc dụng, phòng hộ, rừng sản xuất là rừng tự nhiên ở các doanh nghiệp nông, lâm nghiệp nhà nước đã khoán ổn định cho người nhận khoán theo Nghị định số 01/CP, 02/CP đã chuyển về địa phương theo hạn mức bình quân của địa phương; diện tích vượt hạn mức thì chuyển sang thuê. Đẩy mạnh việc rà soát sắp xếp các công ty nông, lâm nghiệp đảm bảo đất đai được giao cho các chủ thể sử dụng hiệu quả.

Xây dựng cơ chế kiểm soát chặt chẽ việc chuyển mục đích sử dụng đất tại các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa; thu hồi đất vi phạm khi sau cổ phần hóa, đất không sử dụng đúng mục đích, không để tư nhân hóa trá hình gây thất thoát tài sản của Nhà nước. Phân cấp hợp lý thẩm quyền thu hồi đất sử dụng sai mục đích, vi phạm pháp luật về đất đai.

Bốn là, nhà nước thu hồi đất theo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất nhằm phân bổ quỹ đất đai sử dụng vào các mục đích quốc phòng, an ninh, phát triển kinh tế – xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng, tạo quỹ đất thu hút các dự án đầu tư; thực hiện phân bổ các giá trị gia tăng do quy hoạch, chuyển đổi mục đích, đầu tư hạ tầng đảm bảo hài hòa cho các bên Nhà nước, người sử dụng đất và nhà đầu tư. Đồng thời, trong từng bước thực hiện thu hồi, chuyển đổi, phát triển kinh tế phải bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa, quan tâm đến chính sách xã hội. Đảm bảo cho người bị thu hồi đất có cuộc sống, sinh kế tốt hơn, quan tâm phúc lợi xã hội cho người chưa đến tuổi lao động, không còn tuổi lao động và các đối tượng chính sách, yếu thế trong xã hội. Bên cạnh đó, có cơ chế để tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư nhận chuyển quyền sử dụng đất thực hiện các dự án đầu tư theo quy hoạch phù hợp với tiêu chí và ngành nghề kinh doanh.

Quy định cụ thể các trường hợp và cơ chế Nhà nước trưng dụng, trưng thuê quyền sử dụng đất vì mục đích công cộng. Người có đất bị trưng dụng, trưng thuê được bồi hoàn chi phí khôi phục các tổn thất về kinh tế liên quan.

Có cơ chế bồi thường phù hợp khi Nhà nước thu hồi đất có thể bằng tiền, bằng đất có cùng mục đích hoặc khác với mục đích đất thu hồi, bằng nhà với giá trị tương đương hay bằng phương thức “góp đất, tái điều chỉnh đất đai”. Quy định cơ chế phân bổ lợi ích hài hòa đối với Nhà nước, cộng đồng, người dân, người có đất và nhà đầu tư trong chuyển dịch đất đai. Có công cụ tài chính đủ mạnh để xử lý đối với trường hợp đã được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất, cho thuê đất nhưng không đưa đất vào sử dụng hoặc chậm đưa đất vào sử dụng theo quy định.

Năm là, quy định chế độ bắt buộc đăng ký giá đất và các dữ liệu liên quan về tài chính đất đai gắn với xây dựng hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu đất đai. Thực hiện phân cấp định giá đất phù hợp với thẩm quyền thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất.Thành lập cơ quan định giá đất quốc gia. Thực hiện nguyên tắc cơ quan định giá đất và cơ quan thẩm định giá đất là hai cơ quan độc lập.

Đổi mới cơ chế, chính sách kinh tế, tài chính đất đai phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hài hòa giữa thu ngân sách với khuyến khích đầu tư phù hợp với yêu cầu phát triển của ngành, lĩnh vực, đặc thù của các vùng, miền.

Xây dựng luật thuế sử dụng đất nhằm đảm bảo nguồn thu bền vững, công bằng xã hội về tiếp cận đất đai và chia sẻ hợp lý lợi ích từ sử dụng đất, làm tăng hiệu quả sử dụng đất. Điều tiết giá trị tăng thêm từ đất hài hòa giữa các lợi ích người sử dụng đất, Nhà nước, nhà đầu tư.

Sáu là, hoàn thiện các chế định về quyền của người sử dụng đất và trách nhiệm của Nhà nước trong bảo vệ các quyền của người sử dụng đất. Bổ sung các quy định về quyền có liên quan đến việc sử dụng đất như: quyền và nghĩa vụ của người nước ngoài được sở hữu nhà tại Việt Nam, quyền sử dụng không gian ngầm hoặc khoảng không trên mặt đất, quyền thông hành địa dịch, quyền sử dụng đất kết hợp đa mục đích, quyền được bồi thường khi bị hạn chế quyền do các công trình đầu tư của Nhà nước, các quy định về quyền hạn chế,… Mở rộng quyền đối với chủ sử dụng đất trồng lúa và người nhận chuyển nhượng, cho phép được thế chấp quyền sử dụng đất có điều kiện tại tổ chức tài chính, ngân hàng nước ngoài đối với các khu vực không hạn chế về quốc phòng an ninh và tiếp cận đất đai của người tổ chức nước ngoài. Người sử dụng đất phải đăng ký khi thực hiện các quyền để được pháp luật bảo hộ.

Xây dựng cơ chế, chính sách góp quyền sử dụng đất, người có quyền sử dụng đất được góp đất tham gia thực hiện dự án phát triển kinh tế – xã hội, cải tạo các khu vực đô thị, khu dân cư nông thôn gắn với xây dựng cơ sở hạ tầng công cộng; xây dựng cơ chế bảo vệ lợi ích chính đáng của người góp quyền sử dụng đất.

Bảy là, hoàn thiện các cơ chế, chính sách phát triển thị trường bất động sản, trong đó có thị trường quyền sử dụng đất đồng bộ với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Xây dựng, hoàn thiện thị trường quyền sử dụng đất bao gồm cả thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp công khai, minh bạch.

Quy định tiêu chí đối với một số khu vực nhạy cảm về quốc phòng, an ninh, tiêu chí về đối tượng sử dụng đất bị hạn chế quyền hoặc không được tham gia thị trường. Xây dựng sàn giao dịch về quyền sử dụng đất để hỗ trợ phát triển và điều tiết thị trường, kiểm soát tham nhũng, rửa tiền.

Tám là, hoàn thiện các quy định về chế độ sử dụng các loại đất nhằm sử dụng đất đai đúng mục đích, tiết kiệm, hiệu quả và bền vững, đảm bảo an ninh lương thực, ổn định chính trị – xã hội và quốc phòng, an ninh, bình đẳng giới; có chính sách phù hợp để giải quyết, hỗ trợ về đất ở, đất sản xuất cho các đối tượng chính sách xã hội, đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa; xây dựng cơ chế, chính sách bảo vệ, cải tạo, nâng cao chất lượng đất đai, thích ứng với biến đổi khí hậu và bảo vệ môi trường sinh thái

Quy định chế độ quản lý đất nông nghiệp theo các đặc tính chất lượng của từng loại đất, thay vì quản lý loại cây trồng, vật nuôi cụ thể trên đất quy định cơ chế giao đất với thời gian sử dụng đất linh hoạt kèm theo các tiêu chí minh bạch, tuỳ theo từng loại hình sử dụng đất và đối tượng sử dụng đất. Xác định tiền thuê đất, thuế sử dụng đất khác nhau cho từng đối tượng sử dụng đất nhằm khuyến khích sử dụng đất đai tiết kiệm, hiệu quả, bền vững.

Có cơ chế cho phép kết hợp phát triển kinh tế theo quy định của pháp luật trên đất rừng mà không làm thay đổi chức năng chính của đất rừng. Cho phép thực hiện chế độ canh tác nông, lâm kết hợp trên đất quy hoạch làm đất rừng sản xuất, rừng phòng hộ ít xung yếu. Thực hiện giao đất cho cộng đồng với chế độ quản lý đất đai phù hợp với chế độ quản lý rừng theo quy định của pháp luật.

Có chính sách khuyến khích, thúc đẩy phát triển hệ thống cửa khẩu biên giới đất liền quốc gia, quy định diện tích tối đa, tối thiểu cho từng loại hình cửa khẩu biên giới.

Có cơ chế hỗ trợ tích tụ đất đai để phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hóa quy mô lớn phù hợp với cơ chế thị trường; tập trung đất đai chủ yếu thông qua cơ chế thuê quyền sử dụng đất nông nghiệp. Mở rộng các đối tượng là doanh nghiệp, hộ gia đình, cá nhân không trực tiếp sản xuất và ở cùng địa phương được nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất trồng lúa. Mở rộng hạn mức nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất nông nghiệp phù hợp với thực tế các vùng bảo đảm sử dụng đất đai hiệu quả, nhưng có cơ chế kiểm soát để tránh tình trạng đầu cơ đất đai.

Tiếp tục hoàn thiện quy định về quản lý, sử dụng đất quốc phòng, đất an ninh; bổ sung quy định đối với diện tích đất quốc phòng, an ninh mà chưa sử dụng ngay cho mục đích quốc phòng, an ninh thì cho phép sử dụng kết hợp với hoạt động lao động sản xuất, xây dựng kinh tế của quân đội, công an.

Bổ sung các quy định về đất đai cho hoạt động tôn giáo trong đó Nhà nước chỉ thực hiện giao đất sử dụng làm cơ sở thờ tự, cơ sở đào tạo, trụ sở của các tổ chức tôn giáo, tín ngưỡng theo hạn mức giao đất tôn giáo, tín ngưỡng. Quy định tổ chức tôn giáo, tín ngưỡng được nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho, thuê đất để sử dụng vào mục đích làm trụ sở tôn giáo, tín ngưỡng phù hợp với quy hoạch và theo quy định của pháp luật. Thực hiện tốt việc quy hoạch đất cơ sở tôn giáo, tín ngưỡng để chủ động và đảm bảo quỹ đất khi giao. Rà soát tình hình, phân loại và hoàn thành việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cơ sở tôn giáo; lưu ý tính tổng thể và đặc thù trong giải quyết đất cơ sở tôn giáo, tín ngưỡng khi xây dựng cơ chế chính sách.

Hoàn thiện quy định về chế độ sử dụng đất liên quan tới các dân tộc thiểu số; quyền lợi của phụ nữ và trẻ em trong sử dụng đất giao cho các hộ gia đình; về chế độ sử dụng đất phát triển và nâng cấp đô thị, khu dân cư nông thôn theo hướng đẩy nhanh quá trình đô thị hoá và giải quyết nhà ở cho dân; chế độ sử dụng đất phát triển hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội và hạ tầng môi trường tạo điều kiện thúc đẩy cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; chế độ sử dụng đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp hướng tới một quốc gia phát triển có thu nhập cao; chế độ sử dụng đất có yếu tố nước ngoài.

Bổ sung quy định về chế độ sử dụng đất đồng thời cho nhiều mục tiêu khác nhau, đất có nhiều chủ đồng sử dụng đất; xác lập, giao dịch quyền tài sản gắn với quyền sử dụng đất.

Có chính sách bảo đảm bình đẳng giới trong quản lý, sử dụng đất; đảm bảo đất ở, đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số.

Chín là, nâng cao chỉ số tiếp cận đất đai, chuyển sang nền hành chính phục vụ, hiện đại lấy người dân, doanh nghiệp là trung tâm. Tiếp tục đơn giản hóa các thủ tục hành chính trong thu hồi đất, xác định giá đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, giao đất, cho thuê đất, đấu giá quyền sử dụng đất, đăng ký, cấp giấy chứng nhận và các giao dịch về đất đai. Từng bước xã hội hóa một số dịch vụ công trong lĩnh vực đất đai.

Mười là, hoàn thiện quy định cụ thể việc tiếp công dân của các cơ quan chuyên môn trực thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh và việc tiếp công dân của các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cấp huyện cho phù hợp với yêu cầu, tính chất tổ chức và hoạt động của từng cơ quan theo pháp luật về tiếp công dân.

Sửa đổi các quy định của pháp luật để chuyển giao tất cả các tranh chấp, khiếu nại đất đai cho Tòa án thụ lý giải quyết; tăng cường năng lực cho hệ thống cơ quan tư pháp, Tòa án các cấp để giải quyết các tranh chấp, khiếu nại liên quan đến đất đai.

Nhìn chung, hệ thống chính sách, pháp luật về tài nguyên và môi trường không ngừng được hoàn thiện phù hợp với chức năng nhiệm vụ được giao; bám sát yêu cầu quản lý nhà nước và thực tiễn, đặc biệt trong giai đoạn gần đây, pháp luật tài nguyên và môi trường hoàn thiện theo hướng giải quyết những vấn đề được dư luận xã hội quan tâm; tăng cường công khai minh bạch, thiết lập sự bình đẳng trong tiếp cận nguồn lực tài nguyên và môi trường giữa các thành phần kinh tế phù hợp với cơ chế thị trường; cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia; đồng thời bổ sung chế tài xử lý, ngăn ngừa các hành vi vi phạm pháp luật, phòng chống tham nhũng trong lĩnh vực tài nguyên và môi trường. Tinh thần “kiến tạo, liêm chính và hành động” được quán triệt trong quá trình hoàn thiện chính sách pháp luật; công tác cải cách thủ tục hành chính được triển khai thực hiện gắn với quá trình hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật; đã pháp lý hóa việc cung cấp dịch vụ công trực tuyến, ứng dụng công nghệ trong giải quyết thủ tục hành chính cho tổ chức cá nhân,…

Mặc dù giai đoạn trước năm 2012, có một số văn bản quy đinh chi tiết, hướng dẫn thi hành luật chưa được ban hành kịp thời, tuy nhiên từ năm 2013 đến nay, về cơ bản các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành luật đã được Bộ xây dựng, trình ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền có hiệu lực đồng thời với luật và không nợ đọng văn bản quy định chi tiết nào, như: Luật Đất đai, Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo, Luật Khí tượng thủy văn, Luật Đo đạc và bản đồ,…

Với số lượng văn bản quy phạm pháp luật của ngành được giao xây dựng, ban hành theo thẩm quyền hoặc trình cấp có thẩm quyền ban hành rất lớn, trong đó có nhiều nội dung mới, phức tạp, phát sinh nhiều quan hệ pháp luật cần điều chỉnh nhưng với sự nỗ lực phấn đấu, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã xây dựng, từng bước hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về tài nguyên và môi trường. Các văn bản được xây dựng, ban hành đều tuân thủ theo luật định về thể thức và kỹ thuật trình bày của các văn bản. Về cơ bản, các văn bản được ban hành phù hợp với Hiến pháp, đồng bộ, thống nhất, hiệu quả và bảo đảm tính khả thi; phù hợp với các điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc gia nhập, đã kịp thời đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước của ngành, bám sát các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, phù hợp với thực tiễn. Chất lượng văn bản quy phạm pháp luật từng bước được nâng cao, nhất là những năm gần đây đã áp dụng công nghệ 4.0 trong giải quyết thủ tục hành chính cho người dân và doanh nghiệp, góp phần tích cực đưa công tác quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường hiệu lực, hiệu quả và vào nền nếp, đạt hiệu quả cao.

Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật được ban hành, sửa đổi trong thời gian qua phù hợp và thống nhất với các chủ trương của Đảng, các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia ký kết, dựa trên cơ sở lý luận, kinh nghiệm quốc tế và đặc biệt là phù hợp với điều kiện thực tiễn của Việt Nam.

Hệ thống pháp luật về tài nguyên và môi trường được xây dựng, ngày càng hoàn thiện. Tuy nhiên, vẫn còn có những hạn chế, bất cập, như: một số quy định giữa pháp luật về tài nguyên và môi trường và các pháp luật chuyên ngành khác chưa đảm bảo sự thống nhất đồng bộ, có sự chồng chéo, mâu thuẫn dẫn đến việc áp dụng khó khăn (pháp luật về đất đai với pháp luật về đầu tư, đấu thầu, nhà ở, quy hoạch; pháp luật về bảo vệ môi trường với pháp luật về đầu tư; pháp luật về tài nguyên nước, tài nguyên, môi trường biển và hải đảo, đa dạng sinh học với pháp luật về thủy sản, thủy lợi; bảo vệ và phát triển rừng,….); một số quy định của pháp luật về tài nguyên và môi trường cũng chưa được quy định rõ ràng, cụ thể,… dẫn đến việc thực thi pháp luật không được thống nhất, đồng bộ; một số quy định về thủ tục hành chính thiếu sự liên thông, tích hợp dẫn đến việc cùng một dự án, chủ đầu tư phải thực hiện nhiều thủ tục hành chính,…

Trong giai đoạn 2005 -2020, với số lượng hơn 800 văn bản để điều chỉnh 09 lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tài nguyên và Môi trường là tương đối đồ sộ, ít nhiều gây khó khăn trong quá trình tổ chức thực hiện, như: tra cứu, tìm văn bản, dẫn chiếu, áp dụng văn bản…. Một số trường hợp dự thảo văn bản trình chưa đúng thời hạn, chất lượng dự báo chưa cao, quá trình xây dựng văn bản bị kéo dài.

Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này do lĩnh vực tài nguyên và môi trường là một trong những lĩnh vực phức tạp, nhạy cảm, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của người dân và doanh nghiệp. Việc hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và lĩnh vực tài nguyên và môi trường nói riêng được thực hiện trong bối cảnh phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và yêu cầu hội nhập quốc tế, phát sinh nhiều vấn đề mới, đặc biệt là yêu cầu của cải cách hành chính… nên việc xây dựng, sửa đổi, bổ sung, ban hành mới văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực tài nguyên và môi trường cần tiếp tục hoàn thiện.

Bảo đảm chế độ báo cáo thống kê cấp quốc gia

Theo quy định tại Nghị định số 97/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ quy định nội dung chỉ tiêu thống kê thuộc hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc gia, Bộ TN&MT là cơ quan chịu trách nhiệm thu thập, tổng hợp 05 chỉ tiêu, trong đó có 02 chỉ tiêu kỳ báo cáo là năm (Diện tích và cơ cấu đất; Tỷ lệ chất thải nguy hại được thu gom xử lý); 01 chỉ tiêu kỳ báo cáo là 02 năm (Lượng phát thải khí nhà kính bình quân đầu người); 02 chỉ tiêu kỳ báo cáo là 05 năm (Tỷ lệ diện tích các khu bảo tồn thiên nhiên; Diện tích đất bị thoái hóa).

Bảo đảm chế độ báo cáo thống kê ngành

Thực hiện Thông tư số 20/2018/TT-BTNMT ngày 08/11/2018 của Bộ TN&MT quy định Chế độ báo cáo thống kê ngành tài nguyên và môi trường, Bộ TN&MT đã có Công văn số 7179/BTNMT-KHTC ngày 18/12/2020 gửi Sở TN&MT các tỉnh thành phố trực thuộc trung ương, các đơn vị có liên quan trực thuộc Bộ về việc báo cáo số liệu thống kê ngành tài nguyên và môi trường năm 2020, trong đó yêu cầu Sở TN&MT các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương gửi báo cáo về Bộ TN&MT.

Đối với các biểu thống kê đảm bảo yêu cầu theo quy định, Vụ Kế hoạch – Tài chính đã trình Lãnh đạo Bộ cho phép đăng tải trên Cổng thông tin điện tử của Bộ TN&MT (tại địa chỉ: thongke.monre.gov.vn).

Thực hiện cuộc điều tra thống kê trong Chương trình điều tra thống kê quốc gia

Theo Quyết định số 43/2016/QĐ-TTg ngày 17/10/2016 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Chương trình điều tra thống kê quốc gia, Bộ TN&MT được giao chủ trì thực hiện 01 cuộc điều tra thống kê: “Điều tra kiểm kê đất đai, lập bản đồ hiện trạng sử dụng đất”.

Thực hiện Luật Đất đai năm 2013, Bộ TN&MT đã xây dựng trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 15/CT-TTg ngày 17/6/2019 về kiểm kê đất đai, lập bản đồ hiện trạng sử dụng đất năm 2019.

Xây dựng và ban hành Phương án thực hiện kiểm kê đất đai và lập bản đồ hiện trạng sử dụng đất năm 2019 tại Quyết định số 1762/QĐ-BTNMT ngày 14/7/2019; xây dựng dự án kiểm kê đất đai năm 2019 trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định 1932/QĐ-TTg ngày 30/12/2019; tổ chức tập huấn nghiệp vụ cho các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.

Phối hợp với Bộ Quốc phòng, Bộ Công an để thống nhất nội dung, kế hoạch kiểm kê đất quốc phòng và đất an ninh; phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thống nhất giải pháp thực hiện kiểm kê đối với đất lâm nghiệp trong kiểm kê đất đai năm 2019.

Phối hợp với Bộ Tài chính tổng hợp nhu cầu kinh phí thực hiện và xây dựng phương án hỗ trợ kinh phí cho các địa phương trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.

Tổ chức các đoàn công tác đôn đốc, kiểm tra và hướng dẫn tại các tỉnh; kịp thời phát hiện hướng dẫn chỉnh sửa sai sót chuyên môn trong quá trình thực hiện ở các địa phương; ban hành nhiều văn bản đôn đốc, chỉ đạo và hướng dẫn các địa phương thực hiện thống nhất trên phạm vi cả nước.

Xây dựng, cung cấp phần mềm tổng hợp số liệu kiểm kê đất đai các cấp từ bản đồ điều tra kiểm kê cấp xã; thường xuyên quản lý, vận hành hệ thống để các địa phương thực hiện và tích hợp kết quả kiểm kê vào hệ thống phần mềm thống kê, kiểm kê đất đai (TKonline).

Thực hiện kiểm tra, thẩm định kết quả kiểm kê đất đai của các địa phương và xử lý, tổng hợp số liệu, xây dựng bản đồ hiện trạng sử dụng đất các vùng và của cả nước.

Việc công bố số liệu thống kê ngành tài nguyên và môi trường hàng năm được đăng tải trên Cổng Thông tin của Bộ Tài nguyên và Môi trường (địa chỉ: https://thongke.monre.gov.vn). Ngoài ra, Bộ Tài nguyên và Môi trường cũng luôn chủ động phối hợp với Tổng cục Thống kê trong việc xây dựng, hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan về công tác thống kê. Hàng năm, đã tổng hợp, báo cáo các chỉ tiêu thống kê quốc gia được giao chủ trì thu thập, tổng hợp; cung cấp số liệu phục vụ xây dựng Niên giám thống kê theo yêu cầu của Tổng cục Thống kê. Lập đầy đủ hồ sơ thẩm định đối với Hệ thống chỉ tiêu thống kê ngành và Chế độ báo cáo thống kê ngành gửi Tổng cục Thống kê để thẩm định về chuyên môn, nghiệp vụ thống kê trước khi ban hành theo quy định.

Với mục tiêu trên, thời gian tới, thành phố tăng cường chỉ đạo, giám sát các cấp, các ngành, các đơn vị phối hợp đồng bộ trong việc thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất (KHSDĐ) và công tác kiểm tra, thanh tra việc thực hiện quy hoạch, KHSDĐ đã được phê duyệt, ban hành kịp thời các văn bản theo thẩm quyền.

Nam Định tổ chức rà soát và kiên quyết xử lý những dự án chưa đưa đất vào sử dụng sau thời hạn quy định, sử dụng kém hiệu quả, nếu cần thiết có thể thu hồi đất để tổ chức đấu giá quyền SDĐ, đấu thầu lựa chọn chủ đầu tư thực hiện dự án có sử dụng đất. Tăng cường kiểm tra, nâng cao chất lượng lập và thẩm định các hồ sơ giao đất, thuê đất, thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất trên địa bàn thành phố của các tổ chức, cá nhân theo thẩm quyền.

Đồng thời, thành phố tiếp tục tăng cường chỉ đạo và huy động cả hệ thống chính trị và chính quyền các cấp vào cuộc, nhất là sự quyết liệt của cấp chính quyền trong công tác giải phóng mặt bằng đảm bảo sớm cung ứng mặt bằng sạch cho nhà đầu tư sớm triển khai xây dựng các công trình, dự án theo kế hoạch.

Song song đó, TP.Nam Định tập trung thanh tra, kiểm tra trách nhiệm của Chủ tịch UBND và cán bộ địa chính cấp xã trong việc quản lý và sử dụng quỹ đất nông nghiệp vào mục đích công ích của xã, phường; thực hiện trình tự, thủ tục xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, việc trao giấy chứng nhận cho hộ gia đình, cá nhân; việc phát hiện, ngăn chặn và xử lý vi phạm pháp luật về quản lý và sử dụng đất.

Dự án “cải thiện cơ sở hạ tầng đô thị ứng phó với biến đổi khí hậu tại thành phố Sơn La” nhằm giải quyết tổng thể các vấn đề về phòng chống lũ lụt, thoát nước đô thị; cải thiện môi trường, không khí; xử lý nước thải và bảo vệ môi trường nước của thành phố Sơn La, hướng tới chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu và tạo tiền đề cho phát triển đô thị xanh, nhanh và bền vững trong tương lai.

Dự án dự kiến triển khai trên địa bàn thành phố Sơn La và xã Mường Bú của huyện Mường La, bao gồm 5 hợp phần. Tổng mức đầu tư là 970,5 tỷ đồng, đề xuất đầu tư từ nguồn vốn vay ODA của Cơ quan phát triển Pháp (AFD), vốn ODA viện trợ không hoàn lại và vốn đối ứng ngân sách nhà nước. Thời gian thực hiện là 4 năm kể từ khi Hiệp định vay được ký kết và có hiệu lực theo quy định đối với dự án nhóm B (dự kiến năm 2023- 2027).

Phát biểu tại cuộc làm việc ông Olivier Gilard – Trưởng đoàn công tác của cơ quan phát triển Pháp (AFD), Giám đốc dự án Sơn La đã chia sẻ những kinh nghiệm trong việc xây dựng các công trình phòng chống lũ, các công trình phòng chống nước dâng để bảo vệ thành phố như hệ thống chắn rác, xây dựng kè, xây dựng quỹ đất tạm thời để làm hồ chứa để giảm thiểu cùng lúc lượng nước xuống vùng hạ lưu…

Phó Chủ tịch UBND tỉnh Sơn La Nguyễn Thành Công đề nghị Sở Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp chặt chẽ với Sở Xây dựng, Sở Tài chính, Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn hướng dẫn, đôn đốc Ban quản lý các dự án ODA tỉnh hoàn thành các thủ tục đầu tư (đánh giá tác động môi trường, phê duyệt dự án, thẩm định khả năng vay và trả nợ…) trong năm 2022; tiến hành đàm phán, ký kết Hiệp định và lựa chọn nhà đầu tư vào đầu năm 2023.

Bạn đang xem bài viết: All Documents. Thông tin được tạo bởi Gia Sư Minh Đức chọn lọc và tổng hợp cùng với các chủ đề liên quan khác.

Rate this post

Similar Posts