Đề xuất các giải pháp xử lý chất thải rắn
Vì vậy, Chính phủ đã giao Bộ Tài nguyên và Môi trường làm cơ quan đầu mối thống nhất quản lý về chất thải rắn. Trên cơ sở đó, các nhà khoa học Nguyễn Trung Thắng, Hoàng Hồng Hạnh, Dương Thị Phương Anh, Nguyễn Ngọc Tú thuộc Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và…
Vì vậy, Chính phủ đã giao Bộ Tài nguyên và Môi trường làm cơ quan đầu mối thống nhất quản lý về chất thải rắn. Trên cơ sở đó, các nhà khoa học Nguyễn Trung Thắng, Hoàng Hồng Hạnh, Dương Thị Phương Anh, Nguyễn Ngọc Tú thuộc Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường đã đề xuất các giải pháp nhằm quản lý và giảm thiểu chất thải rắn trong hiện tại và những năm tới.
Rác thải chất đống tại Khu liên hợp xử lý chất thải rắn Nghi Yên, Nghệ An. Ảnh: Tá Chuyên/TTXVN
Hiện trạng quản lý và xử lý
Theo Tổng cục Môi trường, cách phân loại chất thải rắn phải theo nguồn gốc phát sinh, thành phần hóa học, tính chất độc hại và khả năng công nghệ xử lý và tái chế… Chẳng hạn như chất thải rắn sinh hoạt (còn gọi là rác sinh hoạt) là chất thải rắn phát sinh trong sinh hoạt thường ngày của con người. Tùy theo lĩnh vực hoạt động của con người mà chất thải rắn sinh ra được phân loại thành chất thải rắn đô thị. Đó là chất thải từ hộ gia đình, chợ, trường học, cơ quan… Chất thải rắn nông nghiệp là rơm rạ, trấu, lõi ngô, bao bì thuốc bảo vệ thực vật…
Lượng chất thải rắn sinh hoạt phát sinh ở Việt Nam hiện nay khoảng 25,5 triệu tấn/năm, trong đó chất thải rắn sinh hoạt đô thị khoảng 38.000 tấn/ngày và chất thải rắn sinh hoạt nông thôn khoảng 32.000 tấn/ngày. Chất thải rắn sinh hoạt ở các đô thị hiện chiếm hơn 50% tổng lượng chất thải rắn sinh hoạt của cả nước và chiếm khoảng 60 – 70% tổng lượng chất thải rắn đô thị.
Bên cạnh chất thải rắn sinh hoạt, nhiều loại chất thải rắn khác cũng đang gia tăng nhanh, như chất thải rắn xây dựng, công nghiệp, y tế, nông nghiệp. Chất thải rắn xây dựng được ước tính chiếm khoảng 25% khối lượng chất thải rắn tại Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và 12 – 13% tại các địa phương khác như An Giang, Bắc Giang, Hải Phòng.
Chất thải rắn công nghiệp phát sinh chủ yếu từ các khu, cụm công nghiệp và đạt khoảng 8,1 triệu tấn vào năm 2016. Chất thải nguy hại công nghiệp thường chiếm 15 – 20% lượng chất thải rắn công nghiệp, phát sinh chủ yếu ở các ngành công nghiệp nhẹ, luyện kim, hóa chất. Chất thải rắn y tế phát sinh khoảng 450 tấn/ngày, trong đó có 47 – 50 tấn là chất thải nguy hại. Chất thải rắn nông nghiệp hàng năm gồm khoảng 14.000 tấn bao bì hóa chất bảo vệ thực vật, phân bón; 76 triệu tấn rơm rạ và; 47 triệu tấn chất thải chăn nuôi.
Hiện một số loại chất thải rắn đang là vấn đề môi trường mới nổi như chất thải rắn xây dựng, chất thải điện tử và chất thải nhựa trên biển. Theo một nghiên cứu quốc tế, lượng chất thải điện tử trên toàn cầu ước vào khoảng 45 triệu tấn, trong đó lượng phát sinh ở Việt Nam đạt khoảng 141.000 tấn năm 2016 và tiếp tục gia tăng.
Đặc biệt, chất thải nhựa trên biển đang là mối quan tâm lớn của cả thế giới hiện nay do các tác động đến hệ sinh thái biển. Việt Nam được đánh giá là một trong 4 nước thải nhiều chất thải nhựa trên biển nhất (sau Trung Quốc, Indonesia và Phillipines) với ước tính khoảng 0,28 – 0,73 tấn/năm. Từ cuối năm 2018, Trung Quốc đã ban hành chính sách hạn chế nhập khẩu các loại phế liệu, do đó lương phế liệu nhập về Việt Nam đang tăng nhanh.
Do dân số tăng nhanh, kết hợp với quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa nhanh chóng dẫn đến sự gia tăng phát sinh chất thải. Ước tính lượng chất thải rắn sinh hoạt ở các đô thị tăng trung bình 10 – 16% mỗi năm, lượng chất thải rắn xây dựng chiếm 10 – 15% chất thải rắn đô thị; đến năm 2025, chất thải rắn y tế phát sinh trên cả nước khoảng 33.500 tấn/năm.
Theo các quy hoạch quản lý chất thải rắn lưu vực sông Đồng Nai, sông Nhuệ – sông Đáy, vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, dự báo đến năm 2030 tổng lượng chất thải rắn sinh hoạt, xây dựng, công nghiệp làng nghề phát sinh tại lưu vực sông Đồng Nai, lưu vực sông Nhuệ – Sông Đáy và vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ lần lượt là 74.200 tấn/ngày, 20.150 tấn/ngày và 53.420 tấn/ngày.
Đề cập về thực trạng công tác quản lý chất thải rắn hiện nay ở Việt Nam, các nhà khoa học Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường cho biết: Tỷ lệ thu gom chất thải rắn đô thị đã tăng từ 78% năm 2008 lên 85,5% năm 2017. Dịch vụ thu gom đã được mở rộng tới các đô thị loại V. Một số đô thị đặc biệt, đô thị loại I như Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Hải Phòng có tỷ lệ thu gom khu vực nội thành đạt 100%; riêng Hà Nội đạt khoảng 98% ở 12 quận và thị xã Sơn Tây.
Tỷ lệ thu gom chất thải rắn sinh hoạt tại khu vực nông thôn mới đạt khoảng 40 – 55%. Tỷ lệ thu gom tại các vùng nông thôn ven đô hoặc thị trấn, thị tứ đạt tỷ lệ cao hơn, khoảng 60 – 80%, còn tại một số nơi vùng sâu, vùng xa, tỷ lệ thu gom chỉ đạt dưới 10%. Tuy vậy, tỷ lệ tái chế chất thải rắn sinh hoạt hiện vẫn còn thấp, khoảng 8 – 12% chất thải rắn sinh hoạt đô thị và 3,24% đối với chất thải rắn sinh hoạt vùng nông thôn.
Một số công nghệ tái chế chất thải như chế biến phân vi sinh, viên nhiên liệu hay đốt thu hồi năng lượng cũng đã được triển khai. Cả nước hiện có khoảng 35 cơ sở xử lý chất thải rắn bằng công nghệ ủ sinh học làm phân hữu cơ, điển hình như ở Hải Phòng, Nam Định, Hà Tĩnh, Ninh Thuận, Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương.
Đặc biệt, hoạt động tái chế phi chính thức ở các làng nghề được phát triển như tái chế nhựa ở Minh Khai, tái chế chì ở Chỉ Đạo (Hưng Yên); tái chế giấy ở Văn Phong (Bắc Ninh); tái chế chất thải điện tử ở Văn Môn (Bắc Ninh)… đang gây ô nhiễm môi trường một cách khó kiểm soát.
Việc chế biến, thu hồi năng lượng từ chất thải mới chỉ bước đầu được triển khai mặc dù tiềm năng rất lớn. Hiện có một số dự án đốt chất thải thu hồi năng lượng (Quảng Bình, Hà Nam, Bình Dương, Hà Nội), 1 dự án nhà máy nhiệt điện đốt trấu; 1 dự án phát điện từ chất thải phân gia súc, gia cầm và 6 dự án điện bã mía.
Phương pháp chính trong xử lý, tiêu hủy chất thải rắn vẫn là chôn lấp. Ước tính 70 – 75% chất thải rắn sinh hoạt đang được xử lý theo phương pháp này. Năm 2016, cả nước có khoảng 660 bãi chôn lấp chất thải rắn sinh hoạt với tổng diện tích khoảng 4.900 ha, trong đó có chỉ có 203 bãi chôn lấp hợp vệ sinh, chiếm 31%. Tiêu hủy chất thải rắn bằng hình thức đốt được thực hiện ở nhiều nơi, với 2 dạng chủ yếu là lò đốt rác hóa lỏng và công nghệ đốt chất thải thu hồi năng lượng. Tính đến hết năm 2016, cả nước có khoảng 50 lò đốt chất thải rắn sinh hoạt.
Mặc dù đã có những bước tiến đáng ghi nhận song công tác quản lý chất thải rắn hiện vẫn còn nhiều tồn tại. Chất thải rắn chưa được phân loại tại nguồn; các biện pháp giảm thiểu phát sinh chưa được áp dụng mạnh mẽ; tỷ lệ thu gom chất thải rắn sinh hoạt nông thôn còn thấp và chưa có chuyển biến tích cực; việc tái chế còn lạc hậu, gây ô nhiễm; phương thức xử lý chính vẫn đang là chôn lấp.
Nguyên nhân là do hệ thống chính sách pháp luật về quản lý chất thải rắn còn chưa đầy đủ, chồng chéo. Việc tổ chức, phân công trách nhiệm về chất thải rắn vẫn còn phân tán và thiếu sự thống nhất gây khó khăn cho việc triển khai thực hiện. Trong khi đó, việc triển khai thực thi các chính sách, văn bản quy phạm pháp luật về chất thải rắn vẫn còn những khó khăn, vướng mắc. Công tác thanh tra, kiểm tra thực thi pháp luật còn nhiều hạn chế, các chế tài quy định về xử phạt đối với các vi phạm về quản lý chất thải rắn chưa đủ sức răn đe.
Mặt khác, việc tổ chức triển khai quy hoạch quản lý chất thải rắn đã phê duyệt tại các địa phương còn chậm. Ðầu tư cho công tác quản chất thải rắn còn hạn chế, chưa đáp ứng đuợc nhu cầu thực tế do thiếu nguồn lực tài chính. Công tác xã hội hóa hiện còn yếu do thiếu các quy định phù hợp nhằm thu hút các nguồn lực đầu tư.
Vấn đề lựa chọn công nghệ xử lý chất thải rắn tối ưu vẫn đang là bài toán thách thức đối với các nhà quản lý và các nhà khoa học, trong khi hiện chưa có mô hình công nghệ xử lý chất thải rắn sinh hoạt hoàn thiện đạt được cả các tiêu chí về kỹ thuật, kinh tế, xã hội và môi trường. Các công nghệ xử lý chất thải rắn của Việt Nam chưa thực sự hiện đại và đang có quy mô nhỏ. Hầu hết công nghệ xử lý chất thải rắn nhập khẩu không phù hợp với thực tế chất thải rắn tại Việt Nam do chưa được phân loại tại nguồn, nhiệt trị của chất thải rắn sinh hoạt thấp, độ ẩm không khí cao… Còn các công nghệ xử lý chất thải rắn chế tạo trong nước lại chưa đồng bộ và hoàn thiện nên chưa thể phổ biến và nhân rộng.
Hơn nữa, hoạt động tái chế chất thải rắn còn mang tính nhỏ lẻ, tự phát, phi chính thức ở các làng nghề, thiếu sự quản lý và kiểm soát của các cơ quan bảo vệ môi trường địa phương. Phần lớn các cơ sở tái chế có quy mô nhỏ, mức độ đầu tư công nghệ không cao, đa số công nghệ đều lạc hậu, máy móc thiết bị cũ, gây ô nhiễm môi trường. Trong khi đó, Nhà nước chưa có quy định về sử dụng công nghệ rõ ràng, chưa có chỉ tiêu và tiêu chuẩn lựa chọn thiết bị, công nghệ xử lý phù hợp.
Những giải pháp khả thi
Rác thải với túi nilon nằm chất đống tại bãi thu gom, xử lý rác thải huyện Đắk R’Lấp, tỉnh Đắk Nông. Ảnh: Hưng Thịnh/TTXVN
Từ thực trạng quản lý và xử lý rác thải rắn nêu trên, các nhà khoa học Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường đề xuất: Trước hết cần tiếp tục tăng cường quản lý nhà nước đối với chất thải rắn; nhanh chóng sửa đổi các quy định pháp luật để triển khai thực hiện Nghị quyết của Chính phủ về việc giao Bộ Tài nguyên và Môi trường làm đầu mối thống nhất quản lý về chất thải rắn.
Tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách pháp luật, hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật; xây dựng cơ sở dữ liệu đầy đủ về quản lý chất thải rắn. Cụ thể như cơ chế phối hợp liên vùng, địa phương trong quản lý; các tiêu chuẩn, quy chuẩn về tái chế chất thải, về sản phẩm tái chế, về lò đốt, về trang thiết bị thu gom, vận chuyển… Kiện toàn, thống nhất tổ chức bộ máy ở Trung ương và địa phương theo hướng phân định rõ trách nhiệm của các Bộ, ngành và giao Sở Tài nguyên và Môi trường làm cơ quan đầu mối, thống nhất quản lý chất thải rắn ở tất cả các tỉnh, thành phố.
Giải pháp thứ hai là cải thiện cơ chế, chính sách để thu hút các doanh nghiệp ngoài nhà nước tham gia quản lý chất thải rắn. Các địa phương cần phải xây dựng và công bố công khai các đơn giá về thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải rắn phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh phát triển kinh tế, xã hội. Nhất là thực hiện công khai, minh bạch trong đấu thầu, tuyển chọn nhà đầu tư quản lý chất thải rắn. Thực hiện đàm phán rõ ràng với nhà đầu tư, tránh trường hợp không đạt được mục tiêu bảo vệ môi trường; xem xét, nâng thời gian hợp đồng để khuyến khích các doanh nghiệp đổi mới, nâng cấp trang thiết bị, công nghệ.
Đồng thời, các địa phương tăng cường thực hiện các biện pháp giảm thiểu phát sinh chất thải và thúc đẩy phân loại tại nguồn; cần khuyến khích các doanh nghiệp áp dụng các biện pháp sản xuất sạch hơn, kiểm toán chất thải, vòng đời sản phẩm, ISO 14000. Các chương trình truyền thông cần tăng cường để thúc đẩy tiêu dùng bền vững trong cộng đồng dân cư.
Các địa phương thực hiện nghiêm các quy định của Nghị định 40/2019/NĐ-CP để kiểm soát chặt chẽ việc nhập khẩu phế liệu trong bối cảnh Trung Quốc gia tăng việc hạn chế nhập khẩu phế liệu. Cùng với đó, các địa phương cần thúc đẩy thực hiện phân loại tại nguồn thành 3 loại là chất thải có thể tái chế; chất thải hữu cơ và loại chất thải còn lại. Đi đôi với việc thu gom, vận chuyển và xử lý riêng biệt đối với chất thải rắn đã được phân loại, tránh chôn lấp chung.
Các nhà khoa học đề nghị cần quan tâm, chú ý đến một số loại chất thải mới nổi, đặc thù. Xây dựng và triển khai thực hiện thành công các chính sách về quản lý chất thải nhựa, túi nilon khó phân hủy, tiến tới chấm dứt hoàn toàn việc sản xuất, tiêu dùng túi nilon và sản phẩm nhựa sử dụng một lần từ 2026. Đối với chất thải điện tử, tiếp tục thúc đẩy thực hiện hiệu quả cơ chế thu hồi, xử lý các sản phẩm thải bỏ sau sử dụng. Đối với chất thải xây dựng, các địa phương cần phát triển các mô hình tái chế, tái sử dụng.
Các nhà khoa học đề xuất nghiên cứu, xây dựng và ban hành văn bản riêng về quản lý chất thải rắn nông thôn; nâng tỷ lệ thu gom và xử lý. Các cấp chính quyền địa phương tăng cường trách nhiệm trong việc lập quy hoạch, bố trí ngân sách và tổ chức thực hiện công tác thu gom, xử lý và sự phối kết hợp liên vùng, địa phương trong quản lý chất thải rắn nông thôn. Các cơ quan chức năng sớm có định hướng ứng dụng công nghệ xử lý chất thải rắn phù hợp với điều kiện của từng vùng miền, địa phương; thực hiện điều tra, đánh giá các loại hình công nghệ xử lý chất thải rắn, từ đó có định hướng khuyến cáo áp dụng phù hợp đối với từng địa phương, vùng, miền; cần lưu ý đặc trưng của chất thải rắn sinh hoạt Việt Nam là có hàm lượng hữu cơ cao (50 – 60%).
Ví dụ, vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa có thể áp dụng công nghệ chế biến phân vi sinh. Vùng nông thôn đồng bằng, áp dụng chế biến phân vi sinh với chôn lấp hợp vệ sinh; các đô thị lớn – xử lý bằng bioga và phát điện đối với chất thải hữu cơ và đốt rác kết hợp phát điện đối với chất thải vô cơ…
Các nhà khoa học đề xuất từng bước phát triển ngành công nghiệp tái chế chất thải chính quy, hiện đại, ứng dụng công nghệ 4.0; Khuyến khích phát triển các mô hình, cơ sở xử lý chất thải rắn hiện đại như ở Quảng Bình, Hà Nam, Hưng Yên, Bình Dương, Hà Nội… Các địa phương lập và triển khai thực hiện các quy hoạch các khu, cụm công nghiệp tái chế; thúc đẩy chuyển đổi công nghệ, loại bỏ dần các cơ sở tái chế lạc hậu ở các làng nghề.