Kỹ thuật nuôi cá quả
mô hình nuôi cá chim trắng trong bể xi măng sau 4 tháng mô hình nuôi cá chim trắng trong bể xi măng sau 4 tháng Cá quả miền Bắc là giống cá nước ngọt có trọng lượng lớn, thịt ngon, được thị trường ưa chuộng. Nếu áp dụng đúng kỹ thuật nuôi cá quả…
Cá quả miền Bắc là giống cá nước ngọt có trọng lượng lớn, thịt ngon, được thị trường ưa chuộng. Nếu áp dụng đúng kỹ thuật nuôi cá quả miền Bắc, chỉ sau từ 4 – 6 tháng bà con đã có thể thu hoạch, cho hiệu quả kinh tế cao gấp nhiều lần so với các mô hình nuôi trồng khác.
Giới thiệu về cá quả
Cá quả là tên gọi chung của một số loại cá thuộc giống cá quả. Các giống cá quả được nuôi phổ biến ở Việt Nam hiện nay là cá chuối, cá lóc bông, cá lóc đầu nhím và cá lóc môi trề. Cá chuối ở miền Bắc có tên khoa học là Opiocephalus macalatus, chúng thích nghi tốt với nhiều điều kiện khí hậu, đặc biệt là khí hậu miền Bắc. Còn cá lóc bông chỉ sống ở vùng nước sâu như sông, ngòi, kênh rạch, các hồ nuôi rộng lớn ở vùng ĐBSCL, còn ở miền Nam và miền Bắc thì không nuôi giống cá này.
Đặc điểm sinh học
Đặc điểm:
Cá chuối hoa trên thân có nhiều vân đen, màu hơn vàng đen, trọng lượng con trưởng thành khoảng 2,5kg. Cá có đuôi thuôn dài, sờ vào chắc. Người chăn nuôi có thể dựa vào các đặc điểm này để phân biệt với cá quả nhập từ trung Quốc (cá nhập từ Trung Quốc thân tròn, cục mịch, đầu dài, màu đen đặc).Cá chuối là loại cá dữ, háu ăn, miệng rộng. Chúng có thể ăn được nhiều con vật nhỏ từ nòng nọc đến ếch nhái, cá con…
Sinh trưởng:
Nhìn chung, cá quả thích nghi tốt với môi trường sống có mực nước sâu trên 1m, diện tích nuôi rộng. Vào mùa nắng nóng, cá quả thích sống ở tầng mặt, nếu trong ao nuôi có cỏ dừa, lục bình, rong đuôi chó thì chúng sẽ trú ngụ bên dưới tầng lá. Độ pH trong nước duy trì ở mức 7 – 8,5. chúng có thể sống được ở môi trường nước lợ với độ mặn khoảng < 5‰.
Cá quả sẽ bị chết cóng nếu nhiệt độ môi trường xuống dưới 15 độ C. Do đó, nhiệt độ phù hợp để nuôi từ 20 – 30 độ C.
Cá quả có thể sống ở môi trường có hàm lượng oxy hòa tan thấp vì có cơ quan hô hấp phụ. Cũng nhờ cơ quan hô hấp phụ mà khi bắt lên cạn vài giờ, chúng vẫn có thể sống. Tuy nhiên, hàm lượng oxy hòa tan yêu cầu >3mg/lít.
Cá quả là một trong những giống cá có tài nhảy cao. Vào mùa mưa lớn, khi đang bị rượt đuổi hoặc đang bơi theo dòng chảy nhưng đột nhiên bị chặn lại thì chúng sẽ nhảy vượt khỏi bờ ao, bờ ruộng, chúng nhảy cao đến nỗi vượt qua đầu người lớn.
Ở miền Bắc hiện nay có các mô hình nuôi cả quả phổ biến: Nuôi trong ao đất, nuôi bè, mương vườn nuôi trong bể xi măng, nuôi trong vèo.
Kỹ thuật sinh sản
Mùa vụ đẻ trứng của cá quả miền Bắc là trước mùa mưa và đến đầu mùa mưa, kéo dài từ tháng 4 – 7, tập trung hơn vào tháng 4 – 5.
Con cá từ 130g, thân dài trên 20cm đã có thể đẻ trứng. Số lượng trứng sẽ tùy thuộc vào kích thước, độ tuổi của cá. Con cái nặng 0,25kg đẻ trung bình 4.000 – 6.000 quả, con từ 0,5kg đẻ trung bình 8.000 – 10.000 quả. Cá chuối là giống cá khôn ngoan nên thường làm ổ đẻ, đồng thời chúng nuôi con cũng giỏi hơn nhiều giống cá khác.
Trung bình cá quả đẻ 4 – 5 lần/năm, mỗi lứa đẻ cách nhau nửa tháng. Cá quả được nhân giống nuôi thâm canh bằng 2 cách: sinh sản tự nhiên và sinh sản nhân tạo.
– Sinh sản tự nhiên:
Cá lóc có tập tính làm ổ đẻ. Do đó, khu vực ao đẻ được xây dựng riêng biệt, diện tích 100 – 150m2, chia làm 2 phần, phần sâu 1m và phần nông 0,3m, dòng nước chảy nhẹ. Bên cạnh đó, có thể làm mưa nhân tạo để kích thích cá nuôi công nghiệp đẻ nhiều trứng, hiệu quả tốt.
Nếu để sinh sản trong ao đất thì xung quanh ao trồng rong, bèo và để cỏ mọc tự nhiên để bờ ao chắc chắn. Ngoài ra, rào cao 40 – 50cm để phòng thất thoát hoặc cá phóng ra ngoài.
Mật độ thả: 1 cặp/m2 để chúng sinh sản tự nhiên.
Lượng thức ăn khoảng 25g/con.
– Sinh sản nhân tạo:
Chuẩn bị ao nuôi.
Nuôi cá chuối đến tuổi đẻ sẽ được tiêm hormone HCG hay não thùy thể cá chép để kích thích cá sinh sản. Cá cái sẽ được tiêm 2 liều tăng tỉ lệ thành công. Cá đực được tiêm 1/3 liều so với cá cái và chỉ tiêm 1 liều duy nhất. Sau khi tiêm, cho cả cá đực và cá cái vào bể nuôi, kích nước để chúng để trứng. Liều dùng như sau:
Áp dụng | Não thùy cá chép | Hormone HCG |
Liều sơ bộ | 1 – 1.5mg/kg cá sinh sản | 500UI/kg cá sinh sản |
Liều quyết định | 6 – 8mg/kg cá sinh sản | 2.500UI/kg cá sinh sản |
Khoảng thời gian từ lúc tiêm liều 1 đến khi tiêm liều 2 | 8 – 12 giờ | 12 – 24 giờ |
Chăm sóc cá bột cho đến giai đoạn thành cá giống:
Áp dụng | Cá bột lên hương | Ương cá hương thành cá giống |
Nơi nuôi | Bể xi măng/ bể lót bạt, nhiệt độ thích hợp từ 25 – 27 độ C | Ao đất |
Kích thước | 4 – 10m2 | 2 – 4m2 |
Độ sâu | 0,5 – 0,6m | 0,6 – 0,8m |
Mật độ | 1.000 – 1.500 con/m2 | 1.000 con/m2 |
Thức ăn | 1 – 10 ngày: cá trứng nước, trùn chỉ 10 ngày – 20 ngày: ăn cá tạp xay nhuyễn, ấu trùng bọ gậy, bọ một mắt, bo bo, con đỏ | Cá xay nhuyễn,cá tạp, cua ốc xay nhuyễn trộn thêm với vitamin A, D, E. Các loại tôm, tép, cá còn, nòng nọc. Trung bình 100kg cá thì ăn 8kg mồi chia làm 3 bữa. Sau 50 – 60 ngày có thể chuyển sang nuôi cá quả thương phẩm (15 – 17g/con) |
Kỹ thuật nuôi cá quả miền bắc
Chuẩn bị:
– Nuôi trong ao:
Diện tích phù hợp từ 500 – 1.200m2.
Hình dáng: thường là xây ao hình chữ nhật, tùy thuộc vào diện tích đất cả từng gia đình.
Độ sâu: 1,5 – 2m.
Vị trí: Ao nuôi gần nguồn nước sạch để thuận tiện trong quá trình thay nước, cải tạo ao nuôi. Xung quanh khu vực ao nuôi nên để thông thoáng, có nhiều ánh sáng chiếu để kích thích cá phát triển tốt nhất. Ao nuôi phải thuận tiện cho công tác chăm sóc, quản lý.
Bờ ao: Phải xây dựng chắc chắn, kiên cố, không có hang hốc, lỗ, không bị sạt lở hoặc dễ sạt lở. Bà con cần quây lưới hoặc đóng hàng cọc hàng rào xung quanh để tránh tình trạng cá nhảy ra khỏi ao.
Để thuận tiện trong quá trình thay nước, ao cần bố trí 2 ống cống cấp nước và thoát nước riêng biệt. Đáy ao hơi nghiêng về phía cống thoát nước, độ nghiêng khoảng 3 – 5%.
Đối với ao cũ đã từng nuôi các loại thủy sản khác, bà con cần tiền hành cải tạo trước khi thả cá quả. Cách cải tạo:
- Nạo vét đáy bùn dày 15 – 20cm
- Vệ sinh, phát cỏ xung quanh bờ, đắp lại bờ ao, kiểm tra xem có hang hốc hay không.
- Bón vôi vào đáy ao để cải tạo, bón 7 – 10kg vôi/100m2. Sau khi bón, cho phơi đáy 2- 3 ngày sau đó cấp nước.
- Bón phân để gây màu cho nước. Sử dụng 5 – 10kg phân chuồng + 3 – 4kg phân NPK cho 1000m2 ao.
Đối với ao mới đào cũng cần cải tạo trước khi thả cá.
- Sau khi đào nên cho ngâm nước và tiến hành tháo – cấp nước 2- 3 lần để rửa phèn.
- Bón vôi cải tạo ao mới. Nếu độ pH trên 4,5 thì bón 7 – 10kh vôi bột/ 10om2, nếu pH dưới 4,5 thì bón 10 -15kg vôi/100m2. Phơi đáy ao từ 2 – 3 ngày sau đó cho nước vào ao.
- Bón phân gây nước màu: Sử dụng 10 – 15kg phân chuồng + 4 – 6kg phân NPK cho 1000m2 ao.
– Nuôi trong bể xi măng:
Ngoài ao đất thì mô hình nuôi cá quả trong bể xi măng cũng được nhiều nông dân áp dụng để khắc phục các nhược điểm như: diện tích, thuận tiện trong khâu chăm sóc, quản lý, thay nước, phòng trừ dịch bệnh và thu hoạch. Thời gian nuôi trong bể xi măng được rút ngắn, cá lớn nhanh, sinh trưởng tốt, chất lượng cá đông đều nên giá bản ổn định, thu hồi vốn nhanh.
Như nông dân Nguyễn Hồng Bình tại xã Quảng Cư, Thanh Hóa, chỉ với 500m2 đất vườn, ông đã xây bể xi măng nuôi cá chuối. Số vốn đầu tư mua giống là 50 triệu đồng, đến nay mỗi vụ ông thu được hơn 20 tấn cá, bán 60.000 đồng/kg, sau 6 tháng thu lãi hơn 400 triệu đồng.
Đặc biệt, mô hình nuôi cá quả trong bể xi măng đang phát triển mạnh ở các huyện thuộc Nghệ An, giúp nhân dân vươn lên làm giàu.
Bà con có thể xây bể nửa nổi nửa chìm để giảm chi phí.
- Diện tích: 40 – 60m2 hình vuông hoặc hình chữ nhật.
- Tường gạch xây cao từ 0,8 – 1m trong đó từ nên cao 0,5m láng xi măng trơn để cá không nhảy được và không làm xây xước cá.
- Xung quanh tường quây bằng lưới hoặc cắm cọc.
- Đáy láng xi măng trơn, nghiêng 3 – 5 độ để dễ thay nước.
– Nuôi trong vèo:
Ngoài ra, bà con cũng có thể áp dụng mô hình nuôi cá chuối trong vèo, giai.Mỗi vèo rộng khoảng từ 10 – 30m2, độ sâu từ 1,5 – 2,5m. Vèo được làm chắc chắn, sử dụng lưới hoặc cước, chọn sợi lưới 3,6 ly, kích thước lỗ lưới 2,5cm bên ngoài nên đóng cọc chắc chắn để buộc vèo. Vèo đặt trên ao, cách đáy khoảng 50cm.
Ưu điểm khi nuôi cá quả trong vèo: có thể nuôi cá với mật độ cao, nguồn thức ăn tập trung nên thuận tiện hơn. Ngoài ra, cá cũng không bị cọ sát vào đáy ao, đặc biệt tỷ lệ hao hụt thép, ít bệnh, dễ dàng quản lý, chăm sóc và thu hoạch.
Thả cá giống
– Mùa vụ:
Vụ 1: thả giống vào tháng 4 – 5 âm lịch, thu vào tháng 8 – 9 âm lịch. Đây là mùa vụ thích hợp nhất.
Vụ 2: thả giống vào tháng 8 – 9, thu hoạch vào tháng 12 sang tháng giêng năm sau.
Vụ 3: Thả vào tháng giêng đến tháng 7. Tuy nhiên thời điểm này thả cá thì cá sẽ chậm lớn.
– Chọn cá giống:
Chọn cá có kích thước đồng đều, trọng lượng đạt khoảng 200g/con, thân dài từ 8 – 10cm thì cá sẽ nhanh lớn. Hoặc bà con cũng có thể chọn giống cỡ 50 – 100g/con, thân dài từ 3 – 4cm.
Đàn cá khỏe mạnh, lanh lẹ, không bị trầy xước, không mang mầm bệnh.Trước khi thả cá giống xuống ao cần để cá làm quen với môi trường nước bằng cách ngâm túi chứa xuống nước 10 – 15 phút, sau đó mở túi từ từ.
Nên tắm cho cá qua nước muối pha loãng, liều lượng 20 – 30g/ lít trong 3 – 5 phút để sạch bệnh, ký sinh trùng. Nên thả cá quả giống vào lúc sáng sớm hoặc chiều mát.
– Mật độ thả:
Nuôi trong ao đất (con/m2) | Nuôi bè (con/m2) | Nuôi trong vèo (con/m3) |
20 – 35 | 80 – 150 | 80 – 100 |
Khi nuôi trong ao đất, bà con có thể thả thêm cá chép (1 con/m2), mè trắng (1 con/2m2) hoặc rô đồng (3- 5 con/m2)… Các giống cá này không tranh giành thức ăn với cá quả lại sinh sản nhanh nên tạo được nguồn thức ăn phong phú cho cá quả.
Thời gian sau khi cá lớn, bà con nên giãn bớt ra để cá đủ không gian sinh sống.
Chăm sóc và quản lý
– Chăm sóc:
Cá chuối là giống cá có thân hình lớn, bộ răng sắc bén, phàm ăn nên nguồn thức ăn phong phú.
Nguồn thức ăn:
Thức ăn từ tự nhiên: Động vật phù du, rô, chép, diếc, sặc bướm, trê, lươn, cua đồng, tôm tép, ếch nhái, cá tạp… nói chung tất cả những con mồi vừa miệng chúng.
Thức ăn nhân tạo: Cách nuôi cá quả đạt năng suất cao, tỷ lệ thịt tốt, bà con cần chủ động sản xuất thức ăn nhân tạo là các loại cám viên để đáp ứng nhu cầu thức ăn hàng ngày cho cá. Trong cám viên, phần lớn là đạm động vật, còn một phần nhỏ là đạm thực vật.
+ Đạm động vật: cá tạp, tôm, cua, ốc bươu vàng, phế phẩm lấy từ các lò mổ…
+ Đạm thực vật: bột gạo, bột ngô, cám tấm gạo, các loại cây họ đậu, khoai, sắn, củ quả các loại.
Cách chế biến thức ăn cho cá quả nhanh lớn:
Để cá nhanh lớn, đối với nguồn thức ăn tươi sống như cá tạp, cua đồng, bà con nên dùng máy nghiền cua ốc để làm nhỏ thức ăn.
Còn cách tự sản xuất cám viên nuôi cá chuối là sử dụng máy băm nghiền đa năng để nghiền nhỏ tất cả nguyên liệu, phối trộn với nhau theo tỉ lệ thích hợp để ép thành cám viên.
Để giảm thiểu ô nhiễm nguồn nước trong khi nuôi, hạn chế tối đa cá công đoạn thay nước, bà con nên tham khảo sử dụng máy ép cám viên nổi để làm thức ăn cho cá. Cám viên sau khi ép sẽ chín hoàn toàn và tự nổi được trên mặt nước. Như vậy, cá sẽ dễ ăn hơn, tránh lãng phí, dư thừa…Cám viên nổi cho cá chuối có 70% thức ăn giàu đạm động vật và 30% thức ăn từ đạm thực vật.
Cách cho cá quả ăn:
Cho cá quả ăn cá tạp cắt vụn
Trung bình muốn tăng 1kg thịt, cần tiêu tốn 4 – 5kg cá rô phi cắt nhỏ hoặc 5 – 6kg thức ăn tự chế. Khẩu phần thức ăn cho cá chuối thay đổi theo trọng lượng cơ thể như sau:
Kích cỡ cá giống (g/con) | Khẩu phần thức ăn (%) |
10 – 20 | 8 – 10 |
20 – 30 | 5 – 8 |
30 – 50 | 5 – 8 |
50 – 100 | 5 – 8 |
> 100 | 5 |
Mỗi ngày cho cá ăn 2 lần: sáng 7 – 8 giờ, chiều 16 – 17 giờ. Ngoài ép cám viên nổi, bà con có thể tham khảo một số cách tự tạo nguồn thức ăn cho cá chuối:
- Nuôi cá chép làm cá mồi.
- Nuôi cá rô phi làm cá mồi
- Nuôi ếch nhái
- Nuôi trùn và dòi
- Thu nhặt ốc bươu vàng
– Quản lý:
Nuôi trong ao đất cần thường xuyên tu bổ bờ ao, ráo chắn sau mỗi đợt mưa hoặc khi thời tiết nắng nóng kéo dài. Nếu trong ao quá nhiều nước, dòng nước chảy ra ngoài mạnh hoặc cạn nước, cá quả sẽ bày ra ngoài, đi tìm chỗ ở khác.
Theo dõi nguồn thức ăn của cá. Chỉ cho ăn lượng vừa đủ để tránh lãng phí và gây ô nhiễm. Không cho ăn thức ăn ôi thiu, ẩm mốc.
Vào những ngày hè nóng, nên bơm bổ sung nước hàng ngày cho ao. bể nước. Định kỳ 10 ngày thay nước 1 lần. Mỗi lần chỉ chay 1/3 – 1/2 nước tránh làm cho cá bị sốc nước.
Định kỳ 1 tháng bón vôi 1 lần để cải tạo nước, liều lượng 2 – 3kg/100m2, điều chỉnh độ pH ở mức lý tưởng. Kiểm tra và cần chắc chắn rằng nồng độ khí độc NH3 và H2S dưới 0,1mg/l.
Bổ sung các vitamin và khoáng chất. Định kỳ 15 ngày lại kiểm tra tốc độ sinh trưởng của đàn cá.
Thu hoạch
Thả cá vào tháng 4 – 5 âm lịch nếu áp dụng đúng cách nuôi cá quả miền Bắc thì sau 4 – 6 tháng, đã bắt đầu có thể cho thu hoạch. Tùy thuộc vào kích cỡ giống, cách chăm sóc quản lý mà năng suất cũng khác nhau. Trung bình đạt từ 70 – 150 tấn/ha.
Phòng và trị bệnh
Tên bệnh | Dấu hiệu | Cách phòng trị |
Bệnh đốm đỏ | Bơi lờ đờ trên mặt nước, có điểm xuất huyết trên thân, bụng cá trương to, ít ăn hoặc bỏ ăn, hậu môn và vây đuôi bị rách. | Sử dụng Oxytetracycline: 2g + Vitamin C 3g/100kg cá. Trộn đều thuốc vào thức ăn, cho ăn 5 – 7 ngày. |
Bệnh trắng da (mất nhớt) | Bệnh xuất hiện khi trên thân cá bị xây xát. Dấu hiệu bỏ ăn, hốc vây lưng xuất hiện màu trắng, lan nhanh. Bệnh nặng vết lở loét sâu, có thể chết. | Tắm cho cá trước khi thả nuôi. Điều trị bằng Cyprocan 4g/kg thức ăn, ngày cho ăn 2 lần trong 5 ngày |
Bệnh thối vây đuôi | Vây bụng, vây đuôi bị viêm nhiễm do cắn nhau hoặc vận chuyển, đánh bắt. | Có thể dùng dung dịch thuốc tím 1g/m3 để tắm cho cá. Dùng kháng sinh Pantacin 200 với lượng 3mg/kg trộn với thức ăn, cho ăn 5 – 7 ngày liên tục. |
Bệnh đốm trắng | Do ký sinh trùng gây ra khiến cơ thể cá có đốm trắng | Dùng thuốc tím nồng độ 1g/m3 để phun xuống bể nuôi. Dùng kháng sinh Gencin 100g/15kg trộn với thức ăn, cho ăn 5 ngày liên tục. |
Cá quả có giá trị kinh tế cao, chất lượng thịt tốt, thị trường tiêu thụ rộng lớn. Mô hình nuôi cá quả đã và đang mang lại hiệu quả cao cho nhiều nông dân. Chúc bà con thành công!