Kỹ thuật nuôi ghép tôm, cua, cá – Tạp chí Thủy sản Việt Nam
Nhân giống thành công Tôm càng nước ngọt – Tôm bản địa Nhân giống thành công Tôm càng nước ngọt – Tôm bản địa (TSVN) – Mô hình nuôi kết hợp tôm, cua, cá giúp giảm thiểu ô nhiễm môi trường, tăng hiệu quả kinh tế và hướng tới nghề nuôi thủy sản vùng triều…
(TSVN) – Mô hình nuôi kết hợp tôm, cua, cá giúp giảm thiểu ô nhiễm môi trường, tăng hiệu quả kinh tế và hướng tới nghề nuôi thủy sản vùng triều ổn định, bền vững.
Ao nên có diện tích tốt nhất từ 2.000 – 5.000 m2, độ sâu 1,2 – 1,5 m trở lên và cao hơn mức triều cường ít nhất 0,5 m. Các yếu tố môi trường thích hợp cho sự sinh trưởng, phát triển của đối tượng nuôi, pH nước từ 7,5 – 8,5; độ mặn từ 5 – 25 ‰ và nhiệt độ từ 28 – 330C.
Ao có cống cấp và thoát để đảm bảo cấp thoát nước cho ao, ở trước cống cấp và thoát nước phải có 2 lớp lưới chắn cẩn thận. Cũng có thể thả chà bằng cành cây khô, lá dừa nước để che mát cho cá, cua.
Trước khi thả giống cần vệ sinh, cải thiện môi trường: Tháo cạn nước, vét bùn đáy ao, tu sửa bờ, cống, bón vôi, phơi đáy, lấy nước vào ao nuôi, diệt tạp, gây màu nước, phân hủy chất cặn bã, xử lý đáy, ổn định môi trường… tương tự như cải tạo ao nuôi tôm. Việc sử dụng hóa chất tẩy dọn ao, đầm, gây màu nước phải tuân thủ theo đúng quy định.
Tùy theo điều kiện ao nuôi ở từng vùng mà chọn đối tượng cá thả nuôi ghép cho phù hợp để mang lại hiệu quả kinh tế cao. Thông thường, cá nuôi ghép cùng là loại có tập tính ăn mùn bã hữu cơ như cá đối, cá dìa, cá măng…
Con giống thả nuôi phải có nguồn gốc rõ ràng, khỏe mạnh, có giấy chứng nhận kiểm dịch và phải được mua từ các cơ sở có kiểm soát chất lượng thủy sản bố mẹ, giống và quá trình sản xuất đạt tiêu chuẩn.
Trước khi thả giống 5 – 7 ngày, cần theo dõi điều kiện thời tiết, cũng như hiện nay thời tiết thay đỗi thất thường khó kiểm soát. Không thả tôm, cá giống trong thời điểm có mưa, không khí lạnh hay những ngày thời tiết bất thường sẽ không có lợi cho sức khỏe cho đàn giống thả nuôi.
Tôm thẻ chân trắng thả với mật độ 40 con/m2, cua biển 1 con/m2, cá 1 con/5 m2. Nguyên tắc thả giống đối với mô hình nuôi kết hợp tôm, cua, cá là thả cua và cá trước khi thả tôm giống 1 tháng, vì cua và cá có thời gian sinh trưởng dài ngày hơn tôm thẻ chân trắng. Và điều quan trọng hơn là sau một tháng thả nuôi, cua và cá có sự hoạt động tốt trong ao, làm cho đáy ao thông thoáng, các loại tảo có lợi trong ao phát triển tốt, nhờ vậy, các chỉ tiêu môi trường nước ao ổn định, sinh vật phù du phát triển thuận lợi cho việc thả tôm.
Nếu có điều kiện, nên dành riêng một ao nhỏ để ương tôm, sau khoảng 20 ngày đến một tháng thì chuyển tôm vào nuôi chung với cua và cá. Đối với các hộ dân chỉ có 1 ao nuôi thì có thể dùng phương thức khoanh lưới khoảng 1/4 diện tích ao để ương tôm, sau thời gian 20 ngày đến 1 tháng thì tháo lưới để nuôi chung với cua và cá.
Đối với tôm, cho tôm ăn hàng ngày dựa trên các yếu tố: Kích cỡ, tỷ lệ sống, tình trạng sức khỏe của tôm, chất lượng nước, thời tiết, chất lượng thức ăn để tôm ăn cho phù hợp. Tùy theo giai đoạn phát triển của tôm mà lựa chọn cỡ thức ăn, hàm lượng đạm cho phù hợp.
Giai đoạn tôm còn nhỏ cần rải đều thức ăn khắp ao, khi tôm lớn rải xung quanh cách bờ 3 – 5 m. Nên rải thức ăn trong vùng đáy sạch, tránh rải ở những khu vực bị ô nhiễm.
Giai đoạn tôm còn nhỏ ở tháng nuôi đầu cho 4 – 6 lần/ngày, lượng thức ăn sử dụng 6 – 10% trọng lượng thân, sau tháng nuôi thứ 2 trở đi cho ăn 2 – 3 lần/ngày, lượng thức ăn sử dụng từ 2 – 5% trọng lượng thân.
Cua có tính ăn tương đối giống tôm, có thể sử dụng thức ăn công nghiệp. Tuy nhiên, để nuôi cua nhanh lớn và chắc thịt cần phải cho cua ăn mồi tanh (cá tạp, vẹm sông…). Cá vẫn sử dụng một phần thức ăn công nghiệp của tôm, ngoài ra cá ăn rong tảo và mùn bã hữu cơ trong ao.
Lưu ý thức ăn phải đảm bảo chất lượng, phù hợp với từng đối tượng nuôi và giai đoạn nuôi. Thức ăn phải đảm bảo không bị mốc, ôi, thiu, thối rữa, nhiễm độc tố, hóa chất độc hại. Đối với thức ăn công nghiệp phải còn hạn sử dụng, nhãn, mác, bao bì rõ ràng và thuộc danh mục được phép lưu hành tại Việt Nam.
Thường xuyên giữ môi trường trong sạch, nếu có điều kiện thì thay nước 15 – 20 ngày/lần. Mỗi lần thay từ 20 – 30% lượng nước trong ao hoặc thay nước theo con nước thủy triều. Thường xuyên quan sát môi trường nước xem màu nước, đáy ao…để khắc phục kịp thời.
Luôn giữ mức nước từ 1 – 1,2 m trở lên. Khi nuôi hỗn hợp với cua cần rào chắn cẩn thận để tránh thất thoát.
Kiểm tra bờ, đăng chắn, cống lấy thoát nước, những chỗ hư hỏng phải được sửa lại, không để cua thoát ra ngoài.
Phải cho tôm, cua, cá ăn đầy đủ vì nếu thiếu thức ăn chúng dễ cạnh tranh hoặc tấn công lẫn nhau. Cua là loài rất háo ăn, vì vậy phải cho cua ăn đủ bữa và đủ lượng thức ăn. Nếu để của bị đói, chúng có thể ăn thịt lẫn nhau và ăn cả tôm nuôi.
Định kỳ 15 ngày tiến hành kiểm tra để biết tỷ lệ sống, tốc độ phát triển, sản lượng tôm, cua, cá hiện có trong ao nuôi, từ đó có cơ sở để quản lý thức ăn được tốt.
Hàng ngày cần theo dõi, kiểm tra tình trạng sức khỏe của các đối tượng nuôi, môi trường ao nuôi. Định kỳ bón các loại vôi CaCO3, Dolomite để ổn định các yếu tố môi trường, phòng bệnh cho đối tượng nuôi.
Sau thời gian nuôi khoảng 3 tháng đối với tôm thẻ chân trắng, kiểm tra tôm nếu đạt kích cỡ thương phẩm thì có thể tiến hành thu hoạch tôm trước. Còn cá, cua để lại nuôi thêm một thời gian nữa.
Cá đối, cá dìa… nuôi tốt sau 6 tháng có trọng 400 – 500 g/con. Có thể thu hoạch tỉa cá lớn trước, sau đó cá nhỏ còn lại tiếp tục nuôi cho đạt cỡ thương phẩm mới thu hoạch.